Thứ Ba, tháng 11 28, 2006

12. NGUYEN VAN TUONG (1824 - 1886) -- THO -- VAI NET VE CON NGUOI, TAM HON & TU TUONG / Tệp 12

PHẦN THỨ TƯ:

CÁC PHỤ LỤC




KÌ VĨ PHỤ CHÁNH ĐẠI THẦN
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 - 1886)
THI TẬP


NGUYÊN TÁC CHỮ HÁN



Tập thơ nguyên tác chữ Hán này, vốn có nhan đề là KÌ VĨ QUẬN CÔNG NGUYỄN VĂN TƯỜNG THI TẬP.
Chúng tôi ghi số trang phần nguyên tác sau đây bằng chữ số a-ra-bi (Arabia), nhưng xin đọc theo cách của sách chữ Hán, từ phải sang trái.
Để tiện tra cứu, đối chiếu, chúng tôi có đánh số thứ tự a-ra-bi trên mỗi đầu bài.
Thi tập gồm bốn mươi hai (42) trang chữ Hán chép tay.
TXA.

Xem phần NGUYÊN TÁC THO CHỮ HÁN tại:


  • http://www.tranxuanan-writer-3.blogspot.com



  • http://www.tranxuanan-writer-4.blogspot.com






  • Ảnh:
    Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường
    những ngày cuối đời trên giường bệnh
    ở xứ đảo lưu đày (Papeete, Tahiti), 1886.
    (Ảnh: BAVH. [1923], tập X, sđd., tr. 485).




    PHẦN THỨ NĂM:

    CUỐI SÁCH




    DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO
    [bảng A]


    BẢNG KÊ RIÊNG CÁC SÁCH CÓ TRÍCH DẪN, ĐỐI CHIẾU TRỰC TIẾP Ở CÁC CHÚ THÍCH, VỚI CÁC ĐẦU ĐỀ ĐƯỢC VIẾT TẮT
    (theo thứ tự chữ cái âm đơn) (*)



    1. Bản sắc văn hóa Việt Nam (Phan Ngọc), Nxb. VHTT., 1998: BSVH. VN.

    2. Bùi Viện với cuộc duy tân của triều Tự Đức (Phan Trần Chúc), Nxb. Đại La, Hà Nội, cuối 1945; Nxb. Kiến Thiết, đầu năm 1946; Nxb. Văn hoá Thông tin, tái bản năm 2000: BV.VCDT. CTTĐ.

    3. Châu bản triều Tự Đức (1847 – 1883) (Quốc sử quán triều Nguyễn, Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát tuyển chọn và dịch (lược thuật), Ban Văn học thuộc Viện KHXH. TP. HCM. in ronéo, 1979; Trung tâm Nghiên cứu Quốc học chỉnh lí, Nxb. Văn Học, 5.2003: CB. TTĐ.

    4. Chống xâm lăng (Trần Văn Giàu), Nxb. Tp. HCM tái bản, 2001: CXL.

    5. Chuyện các quan triều Nguyễn (Nguyễn Đắc Xuân), Nxb. Thuận Hoá, 1999 (?): CCQTN.

    6. Chuyện triều Nguyễn (Bửu Kế), Nxb. Thuận Hóa, 1990: CTN. (**)

    7. Cơ sở văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm), Trường Đại học Tổng hợp TP.HCM. xuất bản, 1995: CSVHVN.

    8. Đại Nam liệt truyện, tiền biên và chính biên, (Quốc sử quán triều Nguyễn), bản dịch Viện Sử học, 4 tập, Nxb. Thuận Hóa, 1993: ĐNLT.

    9. Đại Nam nhất thống chí (QSQTN.), Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, 5 tập, Nxb. Thuận Hóa, 1992: ĐNNTC.

    10. Đại Nam thực lục, chính biên (QSQTN.), tập 11 (xb. 1964), tập 23 (xb. 1970), tập 24 (xb. 1971); đệ tứ, đệ ngũ, đệ lục kỉ (tập 27 – 38, soạn, khắc in nguyên tác dưới thời Thành Thái, Duy Tân), Viện Sử học dịch, Nxb. KHXH., 1973 - 1978: ĐNTL. CB.

    11. Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), (Ts. Cao Huy Thuần), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973; vừa được Nxb. Tôn Giáo tại Hà Nội xuất bản với bản dịch mới của Nguyên Thuận (vào tháng 02.2003), với sự thay đổi nhan đề: “Các giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1957 – 1914)” (Les missionnaires et la politique colonial française au Viet Nam, 1857 – 1914): ĐTC. & CNTDP. TVN.

    12. Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốc (Lam Giang, Võ Ngọc Nhã), sưu tầm, giới thiệu nguyên văn 2 hai sử ca: Dậu Tuất niên gian phong hỏa ký sự (DTNG. PHKS.) và Đại loạn năm Ất dậu (ĐLNAD.), Sài Gòn, 1971: ĐĐT. THCG. AQ.

    13. Hán – Việt từ điển (Thiều Chửu), Nxb. TP. HCM., 1999: HVTĐ. (**)

    14. Hán – Việt từ điển giản yếu (Đào Duy Anh), Nxb. Trường Thi, 1957: HVTĐGY. ( TĐHV. (**)

    15. Hạnh Thục ca (Nguyễn Nhược Thị [Bích]), lời tựa Trần Trọng Kim, Nxb. Tân Việt 1950 (?): HTC. (**)

    16. Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử (Trần Văn Giàu), tập I của bộ sách: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam, từ thế kỉ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. TP. HCM, 1993: HYTPK. & STBCN...

    17. Hoàng đế An Nam (L’Empire d’Annam), (Gosselin), Perrin et Cie, Librairies – éditeurs, Paris, 1904 (chỉ có những trích đoạn được dịch; chưa có bản dịch trọn vẹn ra tiếng Việt): HĐAN. (EA.).

    18. Hương giang cố sự (Nguyễn Đắc Xuân), có bài viết theo Phan Văn Dật [thi sĩ tiền chiến, người Quảng Trị]… và theo nhiều tư liệu khác, Tủ sách Sông Hương xuất bản, 1986: HGCS.

    19. Kì Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường thi tập (do Trần Viết Ngạc, Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển sưu tầm, giới thiệu, phiên âm, dịch [mới 45 bài]), ĐHSP. TP. HCM., tư liệu Hội nghị khoa học, 20.6.1996: KVQC. NVT. TT.

    20. Kỉ yếu Hội nghị khoa học về “Nhóm chủ chiến trong Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, ĐHSP. TP. HCM., 20.6.1996: KY. HNKH. VNCC. & NVT.

    21. Lịch sử thế giới (Ban Tuyên huấn Trung ương - Vụ Huấn học), Nxb. Sách GK. Mác Lê-nin, 1975: LSTG.

    22. Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Nguyễn Đăng Thục), Nxb. TP. HCM. tái bản, 1992: LS. TTVN.

    23. Lô Giang tiểu sử (Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại), Nguyễn Hy Xước dịch, bìa in typo, ruột in ronéo, 1961: LGTS.

    24. Nguyễn Du toàn tập (Nguyễn Du), tập I, Mai Quốc Liên và nhóm cộng tác viên biên dịch, Nxb. Văn Học, 1996: NDTT. t.1.

    25. Nguyễn Trọng Hợp, con người và sự nghiệp (Hội KHLS.VN., Hội SH. Hà Nội), Nxb. Hà Nội, 1996: NTH. CNVSN.

    26. Những khúc ngâm chọn lọc, tập I (Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc biên soạn), Nxb. ĐH. và THCN., 1987: NKNCL.

    27. Những tư liệu mới về Nguyễn Văn Tường (Trần Viết Ngạc), [bài báo giới thiệu, phân tích, bổ sung tư liệu sưu tầm, dịch thuật của bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh, hậu duệ của cụ Nguyễn Văn Tường, và con gái bà là Trần Nguyễn Từ Vân], bns. Xưa & Nay, số 126 (174) tháng 10. 2002: NTLM. VNVT.

    28. BAVH. (Bulletin des amis du vieux Huế), Những người bạn cố đô Huế, 1914 – 1925, 11 tập và 1 tập bản dẫn, Đặng Như Tùng, Bửu Ý, Hà Xuân Liêm, Phan Xuân Sanh, Phan Xưng, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Vi, Lê Văn, Trần Thanh, Nhị Xuyên, Nguyễn Cửu Sà dịch, hiệu đính, biên soạn bổ sung bản dẫn, Nxb. Thuận Hóa, 1997 – 1998, 2001 – 2002: NNB. CĐH. (BAVH.).

    29. Niên biểu Việt Nam (Vụ Bảo tồn bảo tàng), in lần thứ 4, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1999: NBVN.

    30. Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (Yoshiharu Tsuboi), Nguyễn Đình Đầu và nhóm cộng tác dịch, Ban KHXH. TU. TP. HCM. xb., 1990: NĐN. ĐDVP. & TH.

    31. Quân vương (Le Prince), (Machiavel), Phan Huy Chiêm dịch, Nxb. Quảng Hoá, 1968: QV.

    32. Quốc triều chính biên toát yếu (QSQTN.), bản tiếng Việt của QSQTN., Nxb. TH., 1998: QTCBTY.

    33. Quốc triều đăng khoa lục (Cao Xuân Dục), Trúc viên Lê Mạnh Liêu dịch, TT.HL. Bộ VHGD. và TN., Sài Gòn, 1962; bản in 1974: QTĐKL.

    34. Quốc triều hương khoa lục (Cao Xuân Dục), Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch, Cao Tự Thanh hiệu đính, Nxb. TP. HCM, 1993: QTHKL.

    35. Thập giá và lưỡi gươm (Linh mục Trần Tam Tỉnh), nguyên tác tiếng Pháp (Dieu et çésar, Nxb. Sudestasie, Paris, 1978), linh mục Vương Đình Bích dịch, Nxb. Trẻ, 1988: TG. & LG.

    36. Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ (Viện Văn học, Nguyễn Huệ Chi chủ biên), Nxb. KHXH., 1992: THNK. ĐVT.

    37. Thể dục chữa bệnh ở nhà (Senbec, Pocơrôpxki, Coockhin), Đào Duy Thư dịch, Nxb. TDTT., 1987: TD. CBƠN.

    38. Thơ Đường, nhiều người dịch, Nxb. Văn Học, 1987: TĐ.

    39. Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, do Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại, Nguyễn Văn Bách, Đinh Xuân Lâm dịch, giới thiệu, Nxb. Văn Học, 1977: TVNXÔ.

    40. Thơ văn Tự Đức (Tự Đức), 3 tập, Nxb. Thuận Hoá tái bản (theo bản Phủ QVK. đặc trách văn hoá, Sài Gòn, 1970 & 1973), 1996: TVTĐ.

    41. Trung nghĩa ca (Đoàn Trưng), 1866: TNC.

    42. Trung Quốc sử lược (Phan Khoang), in lần 3, ấn quán Hồng phát (Chợ Lớn), 1958. : TQSL.

    43. Truyện đọc, lớp 5 (Đỗ Quang Lưu, Vân Thanh tuyển chọn), Nxb. Giáo dục, tái bản lần thứ 6, 2000: T[R]Đ.

    44. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nguyễn Bá Thế, Nguyễn Q. Thắng), Nxb. Văn Hóa, tái bản lần thứ 5, 1999: TĐ. NVLS. VN.

    45. Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ, Hoàng Phê chủ biên), Nxb. KHXH. và TTTĐ., 1994: TĐTV.

    46. Từ điển từ ngữ tầm nguyên - cổ văn học, từ ngữ và điển tích (Bửu Kế), Nxb. Trẻ, 2000: TĐ. TNTN.

    47. Từ điển văn học (nhiều tác giả), Nxb. KHXH., tập 1 (1883), tập 2 (1884): TĐVH. (I), TĐVH. (II).

    48. Tự vị Annam – Latinh [1772 – 1773] (Pierre Pigneaux de Béhaine), Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu, Nxb. Trẻ, 1999: TVAL.

    49. Việt Nam cách mạng cận sử (Phạm Văn Sơn), Sài Gòn, 1963: VN. CMCS.

    50. Việt Nam, cái nhìn địa - văn hóa (Trần Quốc Vượng), Nxb. VHDT., 1998: VN. CNĐVH.

    51. Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim), xuất bản lần thứ nhất, 1921; Nxb. Tân Việt, in lần thứ bảy, 1964; Nxb. VHTT. tái bản, 1999: VNSL.

    52. Vè chống Pháp, gồm Vè Thất thủ Thuận An và Vè Thất thủ kinh đô (Lương An chỉnh lí, chú thích, giới thiệu), Nxb. Thuận Hóa, 1983: VCP. (gồm: VTTTA. & VTTKĐ.).

    53. Việt Nam, những sự kiện lịch sử, 1858 - 1896, tập 1 (Dương Kinh Quốc), Nxb. KHXH., 1981: VN. NSKLS. I

    54. Vua Hàm Nghi (Hải Âu), Nxb. Văn Nghệ, 2000: VHN. (HÂ.).

    55. Vua Hàm Nghi (Phan Trần Chúc), Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995: VHN. (PTC.).



    (*) Xin xem thêm danh mục sách tham khảo [bảng B].

    (**) Cuốn sách của Bửu Kế vốn có tựa đề là Nguyễn Triều cố sự; khi xuất bản, tựa đề ấy dịch ra tiếng Việt là Chuyện triều Nguyễn. Hán – Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh vốn được quen gọi là Từ điển Hán – Việt (theo kết cấu ngữ pháp tiếng Việt). Chúng tôi sẽ viết tắt là: CTN. và TĐHV., (cuốn của Thiều Chửu vẫn để nguyên: HVTĐ.). Hạnh Thục ca cũng trong trường hợp như vậy: HTC., mặc dù tựa đề đầy đủ là Loan dư hạnh Thục quốc âm ca (Bài ca tiếng Việt về việc xe loan – xe vua – đi chơi đất Thục [điển tích: loạn An Lộc Sơn thờ Đường Minh Hoàng, Trung Hoa]).


    DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO (*a)
    [bảng B]
    (Ngoài các cuốn đã ghi ở bảng liệt kê A,
    với các tên sách viết tắt, ở vài trang trước).


    I. Sách kinh điển, lí luận chung, sách chuyên ngành...:

    1. * Trần Xuân AN, Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết (sắp xuất bản).

    2. * Trần Xuân AN (tuyển chọn tư liệu gốc), Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001 (sắp xuất bản).

    3. * Trần Xuân AN, Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 (sắp xuất bản).

    4. * Trần Xuân AN, Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, hai tập I, II, 2002, hai tập III, IV, 2003 (sắp xuất bản).

    5. * Trần Xuân AN, Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001 (sắp xuất bản).

    6. Tôn Thất BÌNH, Đời sống cung đình triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, 1991.

    7. * Tôn Thất BÌNH, Kể chuyện chín chúa, mười ba vua, Nxb. Đà Nẵng, 1996.

    8. * Phan CANH – Đào Đức Chương, Thi ca Việt Nam thời Cần vương (1885 - 1900), Nxb. Văn Học, 1997.

    9. Nguyễn Duy CẦN, Lão tử tinh hoa, Nxb. TP. HCM., 1992.

    10. Nguyễn Duy CẦN, Trang tử tinh hoa, Nxb. TP. HCM., 1992.

    11. * Phan Bội CHÂU, Những tác phẩm của Phan Bội Châu, tập 1 (gồm Việt Nam vong quốc sử (*b) và Việt Nam quốc sử khảo), Chương Thâu dịch, Văn Tạo chủ biên, Hồ Song giới thiệu, Nxb. KHXH., 1982.

    12. Minh CHI, Các vấn đề Phật học, Viện nghiên cứu Phật học ấn hành, 1995.

    13. * Quỳnh CƯ – Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, in lần thứ 2, 1995.

    14. Nguyễn Đăng DUY, Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb. Hà Nội, 1998.

    15. Trần Văn GIÀU, Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập II của bộ sách “Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ XIX đến Cách mạng Tháng tám”, Nxb. KHXH., 1975.

    16. Trần Văn GIÀU, Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam: Tư tưởng yêu nước, Nxb. Hậu Giang, 1983.

    17. Nguyễn Văn HẠNH, Suy nghĩ về văn học, Nxb. Văn Học, 1979.

    18. Nguyễn Văn HẠNH, Huỳnh Như Phương, Lí luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nxb. Giáo Dục, 1998.

    19. Hoàng Lại GIANG, Nỗi đau trăm năm, tiểu thuyết lịch sử (“danh nhân”), Nxb. Văn Học, in lần 2, 1996.

    20. Lê Thị Thanh HÒA, Việc đào tạo và sử dụng quan lại của Triều đình Nguyễn, từ 1802 đến 1884, Nxb. KHXH., 1998.

    21. * Phạm Khắc HÒE, Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn, lời tựa của Gs. Phạm Huy Lê, Nxb. Thuận Hoá, 1986.

    22. Cao Xuân HUY, Tư tưởng Phương Đông, gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb. Văn Học, 1992.

    23. Trần Trọng KIM, Nho giáo, Nxb. TP. HCM., 1992.

    24. KINH Thánh, Hội Thánh Tin Lành VN., 1986.

    25. * Nguyễn Thiệu LÂU, Quốc sử tạp lục, Nxb. Mũi Cà Mau, 1994.

    26. LÃO tử Đạo đức kinh, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú, Nxb. Văn Học, 1991.

    27. LÊ-NIN, Bàn về văn hóa văn học, Nxb. Văn Học, 1977.

    28. * Đào Trinh NHẤT, Phan Đình Phùng, Nxb. VHTT., 1998.

    29. Vũ Dương NINH – Nguyễn Văn Hồng – Võ Mai Bạch Tuyết, Lịch sử cận đại thế giới, tập I (1886), tập II (1887), tập III (1885), Nxb. ĐH. và THCN.

    30. * QUỐC sử quán triều Nguyễn, Tự Đức thánh chế văn tam tập (quyển IX đến XIV), Bùi Tấn Niên, Trần Tuấn Khải dịch, Tủ sách cổ văn UB. DT. Phủ QVKĐTVH. xb., Sài Gòn, 1973.

    31. SỞ Văn hoá - Thông tin Quảng Trị, Non Mai sông Lĩnh, tuyển tập thơ văn, 1999.

    32. SUZUKI (Daizetz Teitaro), Thiền luận, ba tập (thượng, trung, hạ), Trúc Thiên dịch, Nxb. TP. HCM., 1992.

    33. Trần Thanh TÂM, Quan chức nhà Nguyễn, tái bản lần thứ nhất, Nxb. Thuận Hoá, 2000.

    34. Kim Thánh THÁN, Phê bình thơ Đường, Trần Trọng San biên dịch, TS. ĐHSP. TP. HCM., 1990.

    35. Phạm Phú THỨ, Nhật kí đi Tây, Quang Uyển dịch, Nxb. Đà Nẵng, 1999.

    36. Lê Ngọc TRÀ , Lí luận và văn học, Nxb. Trẻ, 1990.

    37. TRANG tử Nam Hoa kinh, 2 tập, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú, Nxb. Hà Nội, 1992.

    38. Nguyễn Văn TRUNG, Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, thực chất và huyền thoại, chuyên đề 1: Văn hoá và chính trị, Nxb. Nam Sơn, 1963.

    39. Nguyễn Văn TƯỜNG, Di cảo Nguyễn Văn Tường, Trần Đại Vinh dịch, Nxb.?, 1991.

    40. * VIỆN Khoa học xã hội và Trung tâm Hán - Nôm, Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân Đất Nước, Nxb. Đà Nẵng, 2000.

    41. Hồ VĨNH, Dấu tích văn hoá thời Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, 2000.

    42. Thái VŨ, Biến động, tiểu thuyết lịch sử, Nxb. Thuận Hoá, 1984.

    43. * Thái VŨ, Huế 1885, tiểu thuyết lịch sử, Nxb. Thuận Hoá, 1985.

    44. Nguyễn Đắc XUÂN, Chuyện các bà trong cung Nguyễn, Sở VHTT. TT – Huế, tái bản lần hai, 1991.

    45. Nguyễn Đắc XUÂN, Chuyện cũ cố đô, Hội VHNT. BTT. xb., 1987.

    46. Nguyễn Đắc XUÂN, Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành, Nxb. Thuận Hóa, 1992.

    II. Một số bài tham luận, bài báo:

    1. * Một ít bài khảo luận sử học về phái chủ chiến thời Tự Đức trong Hội nghị khoa học do Trường Cao đẳng Sư phạm TP. HCM tổ chức, 1991.

    2. * Lê Quang THÁI, Thử nhận định lại nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886), tạp chí Cửa Việt số 13, tháng 4. 1992, tr. 80 - 84.

    3. * Y THI, Kinh đô thuở ấy bây giờ, kí sự lịch sử, tạp chí Cửa Việt, số (?), 1999, tr. 84 - 87, và số (?), 1999, tr. ?

    4. * Thái VŨ, Nguyễn Văn Tường và vai trò của ông trong cuộc chống Pháp cuối thế kỉ XIX, tạp chí Cửa Việt, số 13, tháng 4. 1992, tr. 75 - 79.

    5. * Và nhiều bài báo khác về Nguyễn Văn Tường với vùng đất Cam Lộ, chiến khu, “kinh đô” kháng chiến Tân Sở (Quảng Trị)... của các tác giả Phạm Hồng Việt, Đỗ Bang, Hồ Vĩnh, Phan Quốc Sắc, Dân Trí, Lê Quảng Sơn... trên các tờ báo tại Quảng Trị, Huế...


    Cước chú của phần Danh mục sách tham khảo [bảng B]:

    (*a) Ghi chú: Những cuốn sách, bài báo đề cập đến ông Nguyễn Văn Tường, chúng tôi có đánh dấu hoa thị * trước các chữ số thứ tự. Các cuốn không có đánh dấu như trên, thuộc loại bàn đến các vấn đề chung hoặc của giai đoạn Nguyễn Văn Tường sống, chiến đấu, hoạt động chính trị, ngoại giao, và sáng tác.

    Ở những sách, báo viết về Nguyễn Văn Tường, nhiều tác giả còn xuyên tạc, sai lầm. Những cuốn, những bài viết về tay sai mị dân như Tôn Thọ Tường, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trường Tộ, Phan Thanh Giản, Nguyễn Trọng Hợp, Trương Vĩnh Ký... thì lại ca ngợi hết lời! Tuy nhiên, sách sử ghi rõ, chẳng hạn: Nguyễn Trường Tộ chỉ chống nước Pháp từ tháng 10.1870 (ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 59 - 60) và 72 ngày Công xã Paris, 1871; nhưng ngay trong thời điểm đó, vẫn muốn quan hệ với Pháp lẫn Anh (cũng sđd., số trang như trên)! Và có thể đặt câu hỏi: Nếu ai cũng tự sát khi giặc xâm lược như Phan Thanh Giản, liệu Tổ quốc Việt Nam có tồn tại đến hôm nay và trở thành một biểu tượng hào hùng của nhân loại?... Tất cả, chúng tôi đều tham khảo, và chỉ tham khảo, chứ không phải gián tiếp giới thiệu, quảng bá luận điệu của thực dân, tay sai...

    Xin được đọc những ý kiến phản hồi, không vì ý đồ bên ngoài khoa học. Trân trọng và thực sự cầu thị.

    (*b) Xin tìm đọc: Trần Xuân An, “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 (sắp xuất bản). Tác giả đã phê phán Lương Khải Siêu (và Phan Bội Châu) về quan niệm sử dụng sử học như một thủ đoạn tuyên truyền chủ trương chính trị của bản thân, bất chấp tính xác thực lịch sử, mà chính phan Bội Châu đã tự thú nhận: “vấn mục đích bất vấn thủ đoạn” (lời tựa cuốn "Tự phán")!


    MỘT SỐ CHỦ ĐIỂM SỬ HỌC PHÁC THẢO
    Ở CÁC CHÚ THÍCH SƠ LƯỢC
    (để tiện lưu ý khi đọc sách này)
    (*)

    A. Nguyễn Văn Tường (1824-1886)
    với nhiệm vụ lịch sử
    sau cuộc kinh đô quật khởi (05 tháng 7. 1885):

    ◘ 1. Một bối cảnh lịch sử hoàn toàn bế tắc.

    ◘ 2. Sự phân công nhiệm vụ lịch sử: “Tổ quốc, vua, dân, đâu trọng khinh?”.
    Nỗi khổ tâm, lòng trung nghĩa của Nguyễn Văn Tường qua mật dụ hàm nghi gửi về từ Tân sở (Cam Lộ, Quảng Trị).

    ◘ 3. “Lòng trung sâu kín, sau ai tỏ?”.

    3a. Đấu tranh mặt nổi và mặt chìm:

    3a1. Đấu tranh với Pháp, bọn tay sai, cơ hội.

    3a2. Đối phó với phe chủ “hoà” (Từ Dũ, Miên Định...) với phương thức “không biết gì hết”.

    3a3. Với phương thức “không biết gì hết”, nhằm phối hợp bí mật nhưng chặt chẽ với phong trào Cần vương.

    3b. Nhiệm vụ lịch sử với lập trường kiên định, thái độ chính trị “nhất dạng”. Sự ngộ nhận, xuyên tạc.

    Thực dân Pháp thao túng trong sự nhân danh triều đình. Nỗi khổ tâm của Nguyễn Văn Tường.

    3c. Thái độ chính trị “nhất dạng” với lập trường kiên định chống Pháp, không chấp nhận “bảo hộ” của Nguyễn Văn Tường qua các bản kết án của thực dân Pháp và triều đình Đồng Khánh.

    3d. Quá trình đấu tranh chống Pháp nhất quán, liên tục của Nguyễn Văn Tường ngay trong những ngày tháng bị lưu đày ở Côn Đảo, Tahiti, qua bài viết của Le Marchant de Trigon.

    ◘ 4. “Tổ quốc, vua, dân, đâu trọng khinh?”.

    4a. Nỗi khổ tâm, lòng trung nghĩa của Nguyễn Văn Tường qua thư Hàm Nghi gửi về từ Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị).

    4b. Sự dựng đứng chuyện bịa, xuyên tạc sự thực lịch sử, nhằm mục đích triệt hạ uy tín của Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến, đó là thủ đoạn tuyên truyền của thực dân Pháp, bọn tả đạo trong Thiên Chúa giáo.

    Phê phán các tư liệu: lập trường, quan điểm đánh giá; lượng thông tin. Kết luận về Nguyễn Văn Tường.

    B. Các chủ điểm khác:

    ◘ 1. Sự kiện thất thủ kinh đô, sự lan rộng chưa đều khắp của phong trào Cần vương sau đêm Kinh Đô Quật Khởi (22 - 23.5 Ất dậu, 1885). Niềm tin chiến thắng của Nguyễn Văn Tường. Chú thích (2), (3), (4), câu đối “Thượng đồ trình, cảm tác đối liên”.

    ◘ 2. Vấn đề tàn dư “Thái bình thiên quốc” biến tướng thành giặc Cờ. Thực dân Pháp (qua Jean Dupuis, Puginier) lợi dụng giặc này để gây rối Bắc Kì nước ta.

    Chú thích (2), bản dịch nghĩa bài 1;

    Chú thích (2), bản dịch nghĩa bài 4;

    Chú thích (3), bản dịch nghĩa bài 12;

    Chú thích (1), bản dịch nghĩa bài 26;

    Chú thích (3), bản dịch nghĩa bài 32 ...

    ◘ 3. Tinh thần bình đẳng nhân tộc, bình đẳng dân tộc, tấm lòng yêu mến các nhân tộc ít người trong ước lệ danh từ của thời đại.

    Chú thích (4), (5) bản dịch nghĩa bài 3.

    ◘ 4. Ông Ích Khiêm. Sự rạn nứt, phân hóa của nhóm chủ chiến trước sự gây rối ren, lũng đoạn, li gián của thực dân Pháp, thực dân tả đạo. Mối quan hệ giữa Ông Ích Khiêm, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường. Vấn đề “tiền sềnh”.

    Chú thích (6), (7) bản dịch nghĩa bài 27.

    ◘ 5. Vè “Thất thủ kinh đô”, vè “Thất thủ Thuận An”: sự mù lòa trong nhận thức chính trị, sự nhận thức chính trị bằng tư duy đơn giản, tuyến tính cứng nhắc, ấu trĩ, rơi vào âm mưu, luận điệu tuyên truyền của giặc Pháp, tả đạo thực dân.

    Bị chú (*a) bản dịch nghĩa bài số 27.

    ◘ 6. Một khía cạnh của quan niệm sống (phác thảo).

    Chú thích (5), bản dịch nghĩa bài 33.

    ◘ 7. Nguyễn Văn Tường với phe chủ “hòa” thời còn thắng thế. Sự không tin dùng và sự tiến cử vào phái bộ. Thành công, bi kịch của Nguyễn Văn Tường, khi đàm phán, kí kết “hòa” ước 1874, và với cuộc khởi nghĩa Văn thân ở Nghệ – Tĩnh. Sách lược thỏa hiệp tạm thời của Triều đình.

    Chú thích (4) bản dịch nghĩa bài 47, và bị chú (c) bản dịch nghĩa bài 42.

    ◘ 8. Hai con đường: con đường làm nô lệ cho giặc Pháp; con đường “không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong truyền thống nghìn xưa.

    Chú thích (1), bản dịch nghĩa bài 50.

    ◘ 9. Nhân dân Nam Kì, Bắc Kì, một bộ phận không ít thật đáng buồn (dữu dân trong giáo dân; ngụy).

    Chú thích (4), bản dịch nghĩa bài 52.

    ◘ 10. Ơn mở cõi đối với các chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Cái nhìn hạn chế, sự nhìn nhận được xem là đúng đắn của trung thần nhà Nguyễn đối với phong trào Tây Sơn.

    Chú thích (2), (8) bản dịch nghĩa bài 53.

    ◘ 11. Gốc gác, quê quán, nơi sinh trưởng của Nguyễn Văn Tường. Nhiệt tình dấn thân xây dựng căn cứ kháng chiến: chiến khu Tân Sở và đường mòn Trường Sơn (Bình Định – Nghệ An). Thái độ đối với việc xây dựng “Vạn niên cát địa”.

    Chú thích (16), bản dịch nghĩa bài 56.

    ◘ 12. Chữ “hòa” đúng nghĩa; chữ “hòa” đồng nghĩa với sự đầu hàng, nhân nhượng đau xót trước thực dân, “tả đạo”.

    Chú thích (2), bản dịch thơ bài 56.

    ◘ 13. Hùng tráng và thanh tịnh (thiền) trong tâm thức Phật giáo Việt Nam và dân tộc.

    Chú thích (7), bản dịch nghĩa bài 59.

    TRẦN XUÂN AN
    người biên soạn (nbs.)


    (*) Bi kịch “tứ nguyệt tam vương” phản ánh sự lũng đoạn, gây rối ren của thực dân Pháp. Vấn đề chữ “trung”, cổ điển và truyền trống, với sự chọn lựa sáng suốt, táo bạo.

    Vấn đề này, chúng tôi (TXA. – nbs.) đã nghiên cứu và giải quyết một cách rốt ráo hơn, đồng thời cũng đề cập đến nhiều vấn đề khác, và đưa vào cuốn “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 (sắp xuất bản).

    Xin vui lòng tìm đọc.

    Có thể tìm xem bài “Bi kịch ở điểm đỉnh mâu thuẫn 1883 – 1884 và sự chiến thắng của nhóm chủ chiến yêu nước”, đã được đăng tải trên tạp chí Xưa & Nay (thuộc Hội KHLS. VN.), số 118 tháng 6.2002, tr. 18 – 19, xem tiếp tr. 23 – 24.

    [BẢN ĐỒ]

    [BẢN ĐỒ]



    MỤC LỤC

    I. PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU. 6

    ◘ Thưa ngỏ

    1. Ảnh chân dung Nguyễn Văn Tường. 7 & 8

    2. Lời Nhà Xuất bản. 9

    3. Lời thưa đầu sách – Trần Xuân An (nbs.). 11

    4. Thông tin về các hội nghị, hội thảo khoa học. 22

    ◘ Nguyễn Văn Tường & chính trị. 35

    1. Nguyễn Văn Tường, qua châu bản triều Nguyễn – Nnc. Trần Viết Ngạc. 36

    2. Nguyễn Văn Tường trong biến cố tứ nguyệt tam vương – Nnc.Trần Viết Ngạc
    3. Tìm hiểu chủ trương của Nguyễn Văn Tường sau cuộc binh biến Ất dậu (1885) – Gs. Đoàn Quang Hưng. 50

    4. Nguyễn Văn Tường, trước và sau vụ biến kinh thành Huế 5. 7. 1885 – Ts. Võ Xuân Đàn. 63

    5. Nguyễn Văn Tường (1824-1886) với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi (05 tháng 7. 1885) – Trần Xuân An. 75

    ◘ Nguyễn Văn Tường & thơ ca. 137

    1. Tấc lòng yêu nước son sắt của Nguyễn Văn Tường... – Nnc. Trần Đại Vinh. 138

    2. Đọc thơ của Nguyễn Văn Tường – Nnc. Vũ Đức Sao Biển. 145

    II. PHẦN THỨ HAI: SÁNG TÁC NGOÀI THI TẬP. 157

    1. Tự trào (câu đối), nguyên tác chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, dịch theo thể loại. 158

    2. Điếu Bùi Viện (câu đối), (trình tự sắp xếp như trên). 161

    2. Giải triều... & hai câu thơ sửa chữa, bổ sung của bài “Giải triều...” (trình tự như trên). 166

    4. Thượng đồ trình, cảm tác đối liên (hai câu song thất) (nt.). 177

    5. Phụ lục: Thơ Phạm Phú Thứ, thơ Nguyễn Thượng Hiền viết về Nguyễn Văn Tường. 183 & 189

    III. PHẦN THỨ BA: THI TẬP. 184

    1. Bài 1: Sơ đáo Lạng Sơn (bản phiên âm, dịch thơ, dịch nghĩa và chú thích, bản nhuận sắc). 195

    2. Bài 2: Họa Lạng vũ Đặng “Vịnh cúc” nguyên vận (trình tự các bản như trên, trừ dăm bài VĐSB. dịch nghĩa như thơ tự do). 202

    3. Bài 3: Sư thứ Cao Bằng. 206

    4. Bài 4: Sư thứ Hà Dương. 212

    5. Bài 5: Chu hành túc Vị Xuyên. 216

    6. Bài 6: Họa Sơn phiên Vũ “Tống ngư hàm” nguyên vận. 219

    7. Bài 7: Họa Sơn Hưng Tuyên nguyên đốc Nguyễn công “Tặng hành” nguyên vận. 222

    8. Bài 8: Họa Sơn phiên Vũ “Tự đạo” nguyên vận. 228

    9. Bài 9: Tô nghịch phản qua phục vãng Lạng. 232

    10. Bài 10: Kí Cúc Viên Trương công tử. 235

    11. Bài 11: Họa Yên Dũng huyện doãn Bùi nguyên vận. 239

    12. Bài 12: Họa Thanh quốc Thái Bình phủ Từ Diên Húc nguyên vận. 244

    13. Bài 13: Ức kinh ấu nữ. 247

    14. Bài 14: Đắc báo nguyên tôn sinh. 249

    15. Bài 15: Tặng Bắc phiên Phạm Quan Thành quy tỉnh thân bệnh. 254

    16. Bài 16: Tặng Từ thủ Trương Cúc Viên phó chức. 258

    17. Bài 17: Tặng Kim tân cựu Lê, Trần nhị huyện doãn. 262

    18. Bài 18: Dạ vũ trình thống đốc Hoàng đại nhân. 266

    19. 20. 21. Ba bài 19, 20, 21: Họa nhạc ông kí phỏng tam thủ nguyên vận. 268

    19. Bài 19: Bài A. 268

    20. Bài 20: Bài B. 271

    21. Bài 21: Bài C. 275

    22. Bài 22: Cửu nguyệt ngộ húy cảm tác. 280

    23. Bài 23: Kí bang biện quân vụ Vũ. 284

    24. Bài 24: Họa tổng đốc Hoàng đại nhân “Vịnh quân trung thủy tiên” nguyên vận. 288

    25. Bài 25: Đông dạ hữu cảm. 292

    26. Bài 26: Đồ tiếp Thanh quan. 295

    27. Bài 27: Kí Sơn thứ tham tán Ông, tán lí Trần. 299

    28. Bài 28: Họa thượng biện Đặng “Lạp nguyệt khổ hàn” nguyên vận. 310

    29. Bài 29: Du Bồ San tự. 313

    30. Bài 30: Dữ thống đốc đăng kì đài hữu cảm. 308

    31. Bài 31: Họa thống đốc Hoàng đại nhân “Phú Bình đạo trung” nguyên vận. 322

    32. Bài 32: Ngẫu thành trình thị sư Nguyễn. 325

    33. Bài 33: Dạ văn ca cổ trình thị sư Nguyễn. 329

    34. Bài 34: Kí phỏng nguyên cao niết Nguyễn. 333

    35. 36. Hai bài 35, 36: Quân trung thuật hoài. 337

    35. Bài 35: Bài A. 337

    36. Bài 36: Bài B (từ bài này cho đến hết tập, trừ bài 54, chỉ có một hoặc thi thoảng có hai bản dịch thơ, đặt sau bản dịch nghĩa). 341

    37. Bài 37: Thất độ Xương Giang. 344

    38. Bài 38: Bệnh trung kí phỏng đồng chí. 347

    39. Bài 39: Văn sư thứ Hương Mang. 351

    40. 41. 42. 43. Bốn bài 40, 41, 42, 43: Họa Bình Lâm tú tài Đặng vịnh vật nhị thủ nguyên vận. 354

    40. 41. “Miếu trung ngọa mộc” nguyên vận. 354

    40. Bài 40: Bài A (chữ cỡ nhỏ trong nguyên bản). 354

    41. Bài 41: Bài B. 357

    42. 43. “Tùng thụ” nguyên vận. 359

    42. Bài 42: Bài A (chữ cỡ nhỏ trong nguyên bản). 359

    43. Bài 43: Bài B. 363

    44. Bài 44: Kí phỏng Đặng tú tài. 365

    45. Bài 45: Tặng Bắc phiên Phạm giá hồi bệnh. 367

    46. Bài 46: Thứ Sơn đốc Trần định chi nguyên đán thí bút. 370

    47. Bài 47: Họa chánh sứ Lê “Tự Đông Gia khởi hành tựu Thuận tấn hỏa thuyền” nguyên vận. 372

    48. Bài 48: Họa chánh sứ Lê “Đăng yết Thiên Y tháp tại Bình Thuận tỉnh, Cù Huân tấn” nguyên vận. 378

    49. Bài 49: Thuyền cận Cần Giờ nghịch phong bất tiến. 383

    50. Bài 50: Tặng dương quan, Gia Định tỉnh nhân, vãng Hương Cảng. 386

    51. Bài 51: Trú Gia Định quan Tây viên hữu cảm. 389

    52. Bài 52: Quá Kim Chương tự. 383

    53. Bài 53: Đề Bình Tây tướng quân Lê quận công mộ, mỗi cú hữu sổ mục tự. 388

    54. Bài 54: Tại Gia Định đắc báo tham biện Nguyễn chi tử thu tiệp. 406

    55. Bài 55: Ất hợi nguyên chính. 409

    56. Bài 56: Cung họa ngự chế “Bính tí nguyên nhật” nhị thập vận. 418

    57. 58. Hai bài 57, 58: Cung họa ngự chế thi nguyên vận “Nhuận ngũ nguyệt hộ từ giá hạnh Thuận An tấn” nhị thủ. 432

    57. Bài 57: Bài A. 432

    58. Bài 58: Bài B. 435

    59. Bài 59: Hạnh Thúy Vân sơn. 439

    60. Bài 60: Thúy Vân sơn. 446

    61. Bài 61: Tư Hiền tấn. 449

    62. Bài 62: Nguyên đán tảo, cứ Quảng Yên tuần phủ Hồ Trọng Liễn (Đỉnh) mã đệ triệp tự quan binh đạp bình Phù Long phỉ sào, nhân chí kì sự. 453

    63. Bài 63: Cung họa ngự chế “Đoan ngọ vãn phiếm chu hành hạnh Tư Hiền tấn”. 462

    64. Bài 64: Hà Trung đạo trung tác. 465

    65. Bài 65: Cung họa ngự chế “Thực ngạc ngư”. 468

    66. Bài 66: Hạ Trần Trọng Cung thất thập thọ. 478

    IV. PHẦN THỨ TƯ: PHỤ LỤC. 481

    1. Nguyên bản chữ Hán (các sáng tác ngoài Thi tập, và trọn vẹn Thi tập gồm 66 bài nguyên tác, chép tay). 482

    [Vì lí do kĩ thuật (chụp phim), tạm thời chưa đưa bản chữ Hán vào được – nbs.]

    2. Ảnh: PCĐT. Nguyễn Văn Tường những ngày cuối đời trên giường bệnh ở xứ đảo lưu đày (papeete, Tahiti), 1886 – Aønh: BAVH. 1923. 526

    V. PHẦN THỨ NĂM: CUỐI SÁCH. 527

    1. Danh mục sách tham khảo (bảng A): Bảng kê tên sách báo tham khảo, đối chiếu viết tắt. 528

    2. Danh mục sách tham khảo (bảng B): Ngoài các cuốn, các bài ở bảng A. 535

    3. Một số chủ điểm sử học phác thảo ở các chú thích sơ lược. 541

    4. Một số bản đồ. 545 & 546

    5. Mục lục. 547

    6. Vài nét về lí lịch và danh mục sách do tác giả sáng tác, nghiên cứu, biên soạn. 553

    7. Đính chính & Về một số điểm trong bản chép Thi tập nguyên tác chữ Hán. 558 & 559

    8. Đính chính bổ sung. 561




    DANH MỤC
    TÁC PHẨM (SÁNG TÁC, NGHIÊN CỨU, BIÊN KHẢO)
    CỦA TÁC GIẢ
    (tính đến 2005)


    TRẦN XUÂN AN

    sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;

    dân tộc: Kinh (Việt Nam);

    quê gốc: Quảng Trị;

    tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Việt, Đại học Sư phạm Huế
    (khóa 1974 – 1978);

    dạy phổ thông trung học ở Lâm Đồng (1978 – 1983);

    hiện chuyên sáng tác, nghiên cứu tại TP. HCM.

    (hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.)


    ● Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục Bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:

    1. Nắng và mưa, tập thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991

    2. Hát chiêu hồn mình, tập thơ, NXB. Đồng Nai, 1992

    3. Tôi vẫn ở trên đường, tập thơ, NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 1993

    4. Lặng lẽ ở phố, tập thơ, NXB. Trẻ TP. HCM., 1995

    5. Kẻ bị ném vào bão, tập thơ, NXB. Trẻ TP. HCM., 1995

    6. Hát với đời, ơi thương mến tập thơ, NXB. Trẻ TP. HCM., 1996

    7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 1998

    8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, NXB. Hội Nhà văn, 1999

    9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, NXB. Thanh Niên, 2003

    10. Sen đỏ, bài thơ hòa bình, tiểu thuyết, NXB. Thanh Niên, 2003

    11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ bốn tập, NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2004

    12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005

    ● Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:

    13. Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, 1997; bản đã sửa chữa, bổ sung, 2001 & 2003

    14. Thơ những mùa hương, tập thơ

    15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, tập thơ

    16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn liên hoàn, 1999

    ● Soạn phẩm, biên khảo đã hoàn tất bản thảo:

    17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn, nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài nghiên cứu văn học, sử học về NVT.), 2000

    18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp”, (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.

    19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001

    20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002

    21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận sử học, 2003

    ● Tặng thưởng, giải thưởng:

    1. Báo Văn Nghệ giải phóng, 1975

    2. Giải sáng tạo trẻ Hội VHNT. Quảng Trị

    (*) Tất cả các tác phẩm, soạn phẩm biên khảo đã được xếp chữ vi tính, ấn hành trong phạm vi từ 10 đến 20 bản sách (gửi các nhà xuất bản, các nhà nghiên cứu, những người bà con và một số bạn thân), trong khi chờ giấy phép và điều kiện để có thể xuất bản rộng rãi. TXA.




    TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
    TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH.
    TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.

    XIN TÌM ĐỌC
    CÁC CUỐN SÁCH KHÁC CỦA TÁC GIẢ
    KÍNH CẢM ƠN



    [Trang thủ tục:]
    NHÀ XUẤT BẢN:

    2003

    CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN:


    BIÊN TẬP:


    BÌA:


    CHỮA BẢN IN:


    In 500 cuốn, khổ 14, 5 x 20, 5 cm,
    tại xí nghiệp in:
    Số đăng kí kế hoạch xuất bản:
    do Cục Xuất bản cấp ngày:
    Quyết định xuất bản:
    In xong và nộp lưu chiểu trong tháng:


    GIÁ:



    NHẬT KÍ SỬA CHỮA

    ◘ Bản thứ nhất

    Xếp chữ vi tính từ bản thảo viết tay của Trần Xuân An và trình bày: LÊ KÍ THƯƠNG, CAO THỊ KIM QUY (theo hệ QuarkXpress, VNI-Times), trong năm 2000.

    ◘ Bản thứ hai

    - TRẦN XUÂN AN (người biên soạn) tự chuyển bản thứ nhất sang hệ WORD 2000, VNI-Times, vào sáng ngày 13. 03. 2003 (11. 02 Quý mùi HB 3) và trình bày lại trong ba ngày, từ ngày 13 đến 15. 04 năm 2003 (12 – 14. 03 Quý mùi HB 3).

    - Lưu ý: Nội dung hai bản đều y hệt nhau, ngoại trừ bài phân tích các chủ điểm sử học để làm cơ sở cho việc cảm nhận bài thơ “Giải triều …” (đặt đầu đề “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05. 07. 1885”) là có tự nhuận sắc ít nhiều.

    - Đã chỉnh lại cỡ bát chữ: 02. 03. HB 4 (2004).

    - Tự nhuận sắc lại về phần niêm cho các bài thơ theo thể thất ngôn, ngũ ngôn luật Đường: 03 – 05. 03. HB 4 (13 – 15. tháng hai nguyên, Giáp thân HB 4).

    Bản thứ hai này đã được sửa chữa, bổ sung lần cuối (về cơ bản, nội dung không khác bản thứ nhất); hoàn tất: 21. 03. HB 4 (01 tháng hai nhuận, Giáp thân, HB 4).

    ◘ Bản thứ ba

    Chuyển từ hệ mã VNI-Windows, font VNI-Centur sang hệ mã Unicode, font Arial, tháng 4. 2005 (năm Ất dậu HB 5) và trình bày lại vào ngày 08 - 09. 8. 2005 (mùng 4 & 5 tháng 7 Ất dậu HB 5). Trong bản này, có bổ sung một bài của Nnc. Trần Viết Ngạc về biến cố “tứ nguyệt tam vương”.

    TXA.


    ĐÍNH CHÍNH

    Ở hai trang 244 - 245, người biên soạn đã quá khiên cưỡng khi liên hệ đến bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan. Chúng tôi (nbs.) đã có dịp viết về bài thơ này:

    Phải liên hệ với các bài thơ khác của Bà huyện Thanh Quan, nhất là “Thăng Long thành hoài cổ”, khi cảm thụ “Qua Đèo Ngang”.

    Chữ “quốc” vốn có nghĩa là “[Đất] nước” (Tổ quốc, quốc gia), nhưng dưới chế độ phong kiến, người ta bị nhồi sọ, đồng nhất Đất nước, Tổ quốc với một triều đại do một hoàng tộc trị vì, do đó “quốc” cũng có nghĩa là “triều đại” (quốc tính [:họ của vua, của hoàng tộc], quốc thích [bên ngoại hoặc bên vợ của vua]…)! Hoặc, có người đồng nhất Tổ quốc, quốc gia với kinh đô của một triều đại hay của những triều đại nối nhau đóng đô ở đó. Nguyễn Du có câu thơ: “Thập tải phong trần khứ quốc xa” (Mười năm gió bụi rời khỏi kinh thành xa xôi) (U cư, Thanh Hiên thi tập, NDTT., sđd., tr. 43 - 44). Hai câu thơ của Bà huyện Thanh Quan trong bài “Qua đèo Ngang”, “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc; Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”, rõ ràng là thể hiện nỗi lòng hoài Lê, đồng nhất triều đại Lê – Trịnh với Thăng Long (Hà Nội), với Tổ quốc (mặc dù sĩ dân Bắc Hà đều biết thể chế vua Lê bù nhìn, ươn hèn và chúa Trịnh lấn bức, chuyên quyền là một biến thái phi đạo lí).

    Xin biên tập viên Nxb. và người đọc vui lòng xem như không có hai câu thơ “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc; Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” ở hai trang nói trên.
    Trên đây là đính chính nhưng đồng thời cũng là bị chú chung cho vấn nạn hoài Lê dưới triều Nguyễn.
    TXA. (nbs.)

    2 BẢN IN VI TÍNH LẦN THỨ HAI & THỨ BA,
    VỀ NỘI DUNG CƠ BẢN,
    KHÔNG KHÁC BẢN IN VI TÍNH LẦN THỨ NHẤT
    (CHỈ CÓ MỘT SỐ SỬA CHỮA, BỔ SUNG NHỎ).



    VỀ MỘT SỐ ĐIỂM
    TRONG BẢN CHÉP THI TẬP
    NGUYÊN TÁC CHỮ HÁN


    A. Các chữ chép sót hoặc chép lỡ nét, đành phải chép tiếp và đánh dấu đảo [thượng / hạ] (thay vì cạo, dán hoặc tháo bỏ tờ đó khỏi quyển rồi chép lại):

    1. Bài 10: bất đáo → đáo bất

    2. Bài 14: tôn sinh [thất vận] → sinh tôn

    3. Bài 18: hạ dạ → dạ hạ

    4. Bài 33: sự thế → thế sự

    5. Bài 33: trung khúc [thất niêm] → khúc trung

    6. Bài 39: chấn đa [thất niêm] → đa chấn

    7. Bài 48: hải phù [thất niêm] → phù hải

    8. Bài 55: kỉ thứ → thứ ki (cơ)

    9. Bài 60: tráng thiên [thất niêm] → thiên tráng

    10. Bài 62: nhân đồng → đồng nhân

    B. Điều chỉnh (đảo ngữ) lại cho hợp vần:

    1. Bài 62: xuất một gian → một gian xuất

    2. Bài 62: sao náo → náo sao

    3. Bài 62: mê giã giác [âm khác :giáo] → giác giã mê

    C. Có hai chỗ chép sót chữ:

    1. Bài 55: thiếu chữ “tri” (tri dã hữu nhân dư). Có lẽ chữ này bị cạo, dán, chưa chép lại cho đủ.

    2. Bài 65: sót chữ “lưu”, người chép đã chép chèn (triều tôn đãn hướng đông lưu thuỷ).

    Tổng cộng: có mười hai điểm đính chính (mục A & mục C) cùng ba điểm khác, người biên soạn (TXA.) mạo muội tạm điều chỉnh cho hợp vần (mục B).

    Ngoài ra, còn có ba chữ thuộc loại khó (“chiềng chuỳ”, bài 30; cũng là chữ “chiềng”, bài 66; “kiển kiển”, bài 37). Kính mong được sự chỉ bảo của các bậc chuyên gia về chữ Hán – Nôm thế kỉ XIX. Xin cảm ơn trước.

    TXA.


    [Trang quảng cáo sách đã xuất bản trong năm 2003 & 2004:]

    Kính mời tìm đọc
    Hai cuốn tiểu thuyết của TRẦN XUÂN AN
    do Nhà Xuất bản Thanh Niên ấn hành,
    tháng 7. 2003:


    NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG
    (376 tr.)
    SEN ĐỎ, BÀI THƠ HOÀ BÌNH
    (280 tr.)


    Có bán tại hiệu sách
    của Nhà Xuất bản THANH NIÊN
    270 Nguyễn Đình Chiểu,
    quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
    (ĐT.: [08]. 9303262)
    và tại các nhà sách khác.

    Tác giả
    (ĐT.: [08]. 8453955).


    ĐỂ HIỂU MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ
    VÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ:
    Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp”, “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”,
    XIN TÌM ĐỌC:
    PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN
    NGUYỄN VĂN TƯỜNG
    (1824 – 1886)
    (truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử)
    trọn bộ 4 tập (985 tr. 16 x 24 cm)
    Tác giả: TRẦN XUÂN AN

    Hội đồng Tư vấn, Phản biện & Giám định
    thuộc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam giám định.
    Tổng Thư kí Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
    DƯƠNG TRUNG QUỐC
    viết lời giới thiệu.

    NXB. VĂN NGHỆ TP. HCM. ấn hành, 12. 2004.
    Công ti Phát hành sách Fahasa phát hành
    tại 41 Nguyễn Huệ, quận 1, TP. HCM.
    & tại 62 Lê Lợi, quận 1, TP. HCM….





    ĐÍNH CHÍNH BỔ SUNG

    THƠ
    NGUYỄN VĂN TƯỜNG
    Vài nét về con người, tâm hồn & tư tưởng



    ĐÍNH CHÍNH BỔ SUNG
    (chủ yếu ở phần Thi tập)


    Vì vô ý, người biên soạn đã in vi tính nhầm tập văn bản (file) chưa sửa chữa. Sau khi in xong, đưa đi sao chụp (photocopy), vẫn không biết mình nhầm.

    Nay đành phải lập bản đính chính bổ sung này.

    Mong được các dịch giả và Ts. Ngô Thời Đôn thứ lỗi.

    Có một điều cũng cần thưa thêm: Vì bản phiên âm, bản dịch nghĩa vẫn là quan trọng nhất, nên ở đây, nbs. không đính chính ở “bản [dịch thơ] biên soạn”. TXA.

    A. Phần sáng tác ngoài Thi tập:

    Tiểu mục 2:

    Bổ sung chú thích (1): Bùi Viện (chữ “Viện” thuộc bộ ngọc); có nơi viết chữ “Viện” thuộc bộ thủ [âm chữ thường dùng: viên; âm khác: viện (:cứu giúp)].

    B. Phần Thi tập:

    1. Bài 1: Bản phiên âm:

    a. Hai câu 17 & 18: “Thiền uyên thất độ hà, Thằng trì tư phấn dực”. Thiền và Thằng đều là điạ danh. Chữ “Thằng” trong bản chép tay được viết theo lối giản thể (xem: Thiều Chửu, HVTĐ., Đạt Sĩ bổ sung, Nxb. Thanh Niên, 2003, tr. 436).

    b. Câu 27: tanh → tinh.

    c. Câu 32: hiến → du (:mưu lược).

    2. Bài 3: Bản dịch nghĩa:

    Câu 5: thừa thãi → còn trơ ra [với thời gian].

    3. Bài 4: Bản phiên âm:

    a. Câu 4: hảo (âm khác: hiếu [: ưa thích]) → hảo (hiếu)

    b. Câu 6: thọ (âm thường dùng: thụ [đồng nghĩa]) → thọ (thụ)

    Bản dịch nghĩa:

    Câu 3: [Núi] → Núi.

    4. Bài 8: Bản dịch nghĩa:

    Câu 3: Ải vắng → Ải hiểm (:ải cheo leo).

    Bản dịch thơ:

    Câu 2: lòng ngất ngây → [lòng] man mác thay.

    Câu 8: cháu con khuây → cháu con ngây!

    5. Bài 12: Bản phiên âm:

    Câu 7: hiến → du (:mưu lược).

    Bản dịch nghĩa:

    Câu 7: Mưu lược mạnh mẽ [như trai trẻ] bày biện đủ đầy còn đó (Tráng du cụ tại).

    6. Bài 14: Bản dịch nghĩa:

    Câu 1: Đó là phúc nhà của bản thân mình, cũng là ơn của vua.

    7. Bài 16: Bản dịch nghĩa:

    Câu 2: Cũng có thể dịch: Sao không xem việc phòng ngự, khống chế [quân giặc] cũng như là việc xung trận. Nhưng cách dịch trước vẫn đúng hơn: Làm sao chống giữ [quân giặc], đồng thời bốn hướng thông thương.

    Chú thích:

    Chú thích (6) bản dịch nghĩa: Xử thế / mạc phi // tranh giả ngộ. “Ngộ”: gặp gỡ; phù hợp.

    8. Bài 17: Bản phiên âm:

    Câu 8: bí → bí (pha)

    9. Bài 18: Bản phiên âm:

    Câu 4: Tanh → Tinh.

    Bản dịch nghĩa:

    Câu 4: cùng [một] thời → cùng hẹn (“tương kì”: cùng kì hẹn).

    10. Bài 21: Bản dịch nghĩa:

    Câu 4: ai [lại] chia tay Nhan [Hồi]; hoặc: ai biệt đãi Nhan [Hồi].

    Câu 8: Theo nghĩa từ điển: “ban” có một nghĩa là rút quân. Nghĩa này rất sát hợp với Đại Nam thực lục (xem chú thích). Cũng có thể dịch: Nào đã từng thi thố một lần.

    11. Bài 23: Bản phiên âm:

    Câu 2: thần → thần (thời)

    12. Bài 24: Bản dịch nghĩa:

    Câu 7: nên ôm giữ sự trong sạch, tĩnh tại.

    13. Bài 26: Bản phiên âm:

    Câu 6: Vi → Vi (vị) [Vi: làm; Vị: vì].

    Câu 8: cánh ( cánh (canh)

    Bản dịch nghĩa:

    Câu 1: Ai kia làm được việc tốt cho triều đình.

    Câu 6: Vì đức đến cùng, há cầu bên ngoài

    Câu 8: nên oán hận sao? → thấy lại thêm oán hận sao?

    14. Bài 3: Bản biên soạn:

    Câu 8: Ai tạo, dân đen? → Ai tạo dân đen? (bỏ dấu phẩy).

    15. Bài 31: Bản dịch nghĩa:

    Câu 4: quân lính trong sạch ( thanh thế quân đội

    Câu 8: yêu ma → nhỏ bé


    16. Bài 33: Bản dịch nghĩa:

    Câu 7: Cũng có thể dịch “bàng nhân” là người bên cạnh, nhưng nghĩa từ điển còn là: người ngoài cuộc (TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 38 [chữ “bàng” có bộ nhân và không có bộ nhân vẫn như nhau]).

    17. Bài 35: Bản dịch thơ (TĐV.):

    Thiếu một chú thích (2) cho câu 8 bản dịch thơ (TĐV.): Định Viễn (sử Trung Hoa): mĩ hiệu của Ban Siêu, có nghĩa là bình định được vùng đất biên viễn. Đó là một người được phong đến tước hầu; trải qua ba mươi năm chinh chiến ở biên giới, khi trở về đầu đã bạc trắng.

    18. Bài 36: Chú thích:

    Bổ sung chú thích (5) cho câu 8 bản dịch nghĩa: Cũng có thể tác giả nhắc đến điển tích “xuân dương, bạch tuyết”, ý nói: bài hát dân dã, thơ ca mộc mạc.

    19. Bài 38: Bản phiên âm:

    Câu 2: nhược → khổ (?).

    20. Bài 45: Bản dịch nghĩa:

    Đầu đề: BUỒN LO … → [ĐƯỢC] VỀ NGHỈ BỆNH.

    Câu 2: Gia Viễn, người mới về → (nếu “gia viễn” không phải điạ danh:) Nhà xa, bắt đầu về (Nhà xa, người khởi về)

    Câu 7: tặng biếu → đưa tiễn (cũng có thể dịch: tặng biếu).

    21. Bài 46: Bản dịch nghĩa:

    Đầu đề: LÀM TIẾP TỔNG ĐỐC SƠN TÂY [HỌ] TRẦN [CÂU THƠ] ĐÃ LÀM SẴN, [BÀI] “NGUYÊN ĐÁN THỬ BÚT”

    Chú thích:

    Bổ sung chú thích (2) bản dịch nghĩa: Lưu ý: Hai câu thơ đầu theo luật bằng (chữ thứ hai câu thứ nhất: “niên” [thanh bằng]) nhưng sáu câu tiếp lại là luật trắc. Do đó, hẳn hai câu đầu bài là của Trần Bình?

    22. Bài 47: Chú thích:

    Chú thích (3): Nguyễn hải → Nhuyễn hải.

    23. Bài 48: Bản phiên âm:

    Câu 6: Hải phù kì lục → Phù hải kì duyên

    Bản dịch nghĩa:

    Câu 6: Biển cồn mối duyên lạ lùng

    24. Bài 48: Bản phiên âm:

    Câu 4: phị → phị (phí)

    Chú thích:

    Chú thích (3): núi Ba → núi Bà.

    25. Bài 53: Bản dịch nghĩa:

    Câu 4: suy nghĩ → suy tôn

    Chú thích:

    Chú thích (a): (“mỗi câu có vài chữ mắt”) … → (“mỗi câu có vài chữ số [số mục]”). Ngoài ra, thiết tưởng cũng nên lưu ý đến các nhãn tự (chữ mắt) trong bài thơ này. Có lẽ nhà thơ muốn khẳng định về mặt cá tính, Lê Văn Duyệt là một trang nam tử hẳn hoi, mặc dù đích thực là người yêm hoạn bẩm sinh…

    26. Bài 55: Bản phiên âm:

    Câu 40: Cư tử → Quân tử

    Câu 42: Kỉ thứ → Thứ cơ (ki) [: ngõ hầu]

    Chú thích:

    Chú thích (11): “cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cữu…”. Đại ý: cái gì quá cực đoan sẽ dẫn đến sự biến dịch, biến dịch tất phải khai thông, khai thông tất phải như cũ (trạng thái bình quân âm – dương). Lão Tử đã viết rõ về luật “phản phục”: “Vật cùng tắc biến”; “vật cùng tắc phản” (sự vật đi đến chỗ cực đoan sẽ quay ngược lại); “Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản” (Lớn là tràn khắp, tràn khắp thì đi xa, đi xa là trở về); hiểu một cách khái quát, cũng như trên đã nói: sự vật khi đi đến cực độ thì phải biến, mà biến, thì lại biến trở về cái đích của nó (xem: LTTH, sđd., tr. 44, 124).

    27. Bài 60: Bản dịch nghĩa:

    Câu 1: [Tuy] không [lớn] bằng núi Linh Thái, [song núi Thuý Vân] cũng chầu về [phương] nam

    Câu 5: [ở các] ngọn núi ([ngỡ] tròn) lắm mây → mây [che trên] ngàn ngọn núi

    Câu 6: [ở những] đầm phá [tràn ngập] đều khắp [ánh] trăng ([ánh] trăng [trải khắp] một đầm phá

    28. Bài 61: Bản phiên âm:

    Câu 1: Vi → Vị

    Châu phê: biểu kiến → biểu hiện (kiến)

    Bản dịch nghĩa:

    Câu 1: → [Công] bình định, làm nên của vua Vũ là đã rạch ròi, thông suốt [bờ cõi].

    Câu 6: Triều đình → chầu về (“củng triều”)

    Chú thích:

    Dịch nghĩa câu châu phê: (b) ngươi cũng không được rảnh rỗi → vậy cũng thật [ngươi] không được rảnh rỗi; … & … [nhưng] không biểu lộ kiến giải gì → [cũng] không lộ liễu gì (tức là ý tứ kín đáo; lộ liễu là nhược điểm trong thơ; kín đáo là ưu điểm trong thơ).

    29. Bài 62: Bản phiên âm:

    Câu 19: Kình nguyệt → Kình huyệt

    Câu 29: khách điển → khánh điển

    Câu châu phê: nhị thập niên → nhị thập bát niên

    Chú thích:

    Chú thích (13): “Máy huyền vi tạo hoá khôn lường” → “Máy huyền vi đóng mở khôn lường”

    30. Bài 63: Bản phiên âm:

    Câu châu phê: “Chí khí sở vi lão nhi ích tráng” → “Chí khí sở vị lão nhi ích tráng”

    Bản dịch nghĩa:

    Câu 4: Chẳng quan hệ gì đến chuyện đua bơi [mà] cánh buồm [nhẹ] lướt


    31. Bài 65: Bản phiên âm:

    Câu 31: bất thắng tình → bất thăng (thắng) tình

    Bản dịch nghĩa:

    Câu 30: Triều đình, tôn thất (mặc dù cũng có thể dịch như vậy) → Chầu về ngôi cao


    32. Bài 66: Bản phiên âm:

    Câu 1: động hữu chiềng → động (đỗng) hữu chiềng


    Người biên soạn (TXA.) chép lại những điểm đính chính, hiệu đính của các dịch giả và của Ts. Ngô Thời Đôn như trên.
    Tp. HCM., ngày 08. 04. HB4 (19. 02 nhuận G. thân HB4).
    TXA.

    Ngày 09-8-2005 (5-7 Ất dậu HB 5), đã sửa ở các trang cần đính chính.
    TXA.



    TÁC PHẨM
    VÀ SOẠN PHẨM BIÊN KHẢO, NGHIÊN CỨU
    của Trần Xuân An
    VỀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)
    ĐÃ HOÀN TẤT BẢN THẢO
    (có cuốn đã xuất bản hoặc đã đăng tải trên website / internet):


    1. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, hai tập I, II, 2002, hai tập III, IV, 2003; đã sửa chữa cả bốn tập (2003 - 2004); NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2004.

    2. Thơ Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) & Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000.

    3. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.

    4. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.

    5. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002; đã sửa chữa, bổ sung, 2003. Web Giao Điểm, tháng 5 – 2005.



    DANH SÁCH ĐÃ GỬI & TẶNG
    (nhờ đọc & giữ bản thảo giúp):


    A. Bản in lần thứ nhất (2000), chưa sửa chữa, hiệu đính:

    1. Tạp chí Xưa & Nay (anh Nguyễn Hạnh)

    2. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (cô Nguyễn Thị Phương Chi)

    3. Nxb. TP. HCM. (cô Đỗ Loan)

    4. Ô. Võ Xuân Đàn

    5. Ô. Trần Viết Ngạc

    6. Ô. Trần Đại Vinh & Ô. Ngô Thời Đôn

    7. Chú Nguyễn Văn Toàn (bà con)

    8. Chú Nguyễn Văn An [ĐHSP. Tp. HCM.] (bà con)

    9. Tạp chí Sông Hương

    10. Tạp chí Cửa Việt (Ôô. Cao Hạnh, Y Thi)

    11. Ô. Nguyễn Q. Thắng

    12. Một cuốn lưu … & một vài cuốn khác để làm bản nháp hiệu đính …

    B. Bản in vi tính lần hai (3.2004), đã sửa chữa & bản đính chính bổ sung (hiệu đính…):

    1. Nxb. TP. HCM. (cô Đỗ Loan)

    2. Chi nhánh Nxb. Văn Học (anh Triệu Xuân)

    3. Ô. Trần Đại Vinh

    4. Ô. Ngô Thời Đôn

    5. Anh Nguyễn Tôn Nhan

    6. Anh Vũ Đức Sao Biển

    7. Một cuốn lưu …

    TXA.
    TP.HCM., 10. 04. HB4



    __________________________


    Tiếp theo phần 2
    (từ tr. 210 đến tr. 483)

    Phần 3
    (từ tr. 484 đến tr. 595)

    (trọn cuốn sách chỉ gồm 3 phần, tổng cộng 595 tr., gồm cả những trang ngoài sách, những trang dự phòng để chỉnh lí sai sót [tr. 574 – 595])


    05-11 HB6:
    Web. Tác phẩm Trần Xuân An –
    www.tranxuanan-writer-7

    - Tr. 484 – 573
    - & ….








    ____________________________
    ____________________________



    Ghi chú về sự sắp xếp lại trang web:

    Tệp 12 này, người biên khảo đã đưa từ trang web:
    http://www.tranxuanan-writer-7.blogspot.com
    qua trang web:
    http://www.tranxuanan-writer-6.blogspot.com

    Như vậy, cuốn sách "NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 - 1886) -- THƠ -- VÀI NÉT VỀ CON NGƯỜI, TÂM HỒN & TƯ TƯỞNG" chỉ có 2 trang web chính:
    1. Từ tệp 1 đến tệp 6 (khung 1[1] đến khung 6[6] của trang web):
    http://www.tranxuanan-write-5.blogspot.com
    2. Từ tệp 7 đến tệp 12 (khung 1[7] đến khung 6[12] của trang web):
    http://www.tranxuanan-write-6.blogspot.com
    cộng với hai trang web nguyên tác chữ Hán phụ lục:
    http://www.tranxuanan-writer-3.blogspot.com
    http://www.tranxuanan-writer-4.blogspot.com

    Tôi sẽ dành trang web:
    http://www.tranxuanan-writer-7.blogspot.com
    cho phần đối thoại giữa tôi và anh Nguyễn Đắc Xuân, giữa tôi và Lê Tiến Công.

    Đây chỉ là sự thay đổi vị trí của tệp 12 mà thôi. Ngoài ra, hoàn toàn không có sự sửa chữa, bổ sung nào về nội dung của cả 12 tệp thuộc cuốn sách nói trên.

    Trân trọng kính thông báo về sự thay đổi này.

    Người biên khảo:
    TRẦN XUÂN AN

    Thứ hai (thứ ba cũ), ngày 28-11 HB6 (2006)
    [sinh nhật âm lịch 08-10 // Bính tuất HB6],
    lúc 08 : 31' tại TP.HCM..

    Chủ Nhật, tháng 11 05, 2006

    11. NGUYEN VAN TUONG (1824 - 1886) -- THO -- VAI NET VE CON NGUOI, TAM HON & TU TUONG / Tệp 11

    Bài 54

    TẠI GIA ĐỊNH ĐẮC BÁO THAM BIỆN
    NGUYỄN CHI TỬ THU TIỆP


    Khách trung xa mã yếm phi trần
    Hồi ức thu vi tập tấn thân
    Phan quế thử lang nghi đắc thủ
    Thừa sà ngô bối vị tri tân
    Gia nghiêm trách trọng thần vi phụ
    Quốc khánh thù nan tử hữu quân
    Vân thủy hà thời quy cựu phố
    Nhất môn vũ trạch cánh thiêm tân.


    TRẦN ĐẠI VINH
    phiên âm

    54

    Ở GIA ĐỊNH ĐƯỢC TIN CON TRAI
    THAM BIỆN NGUYỄN TĂNG DOÃN
    THI HƯƠNG ĐỖ

    Quê xa người ngựa, chán phong trần
    Nhớ buổi thi hương tập tấn thân
    Vin quế chàng này càng rõ vững
    Cỡi bè đây lão chẳng hay gần
    Tôi, quan, làm bố, nghiêm bồ chữ
    Vua, nước, tuyển con, nặng gánh ân
    Mây sóng khi nào về bến cũ
    Hai ơn một cửa lại tươi ngần.


    TRẦN ĐẠI VINH
    dịch thơ

    54

    TẠI GIA ĐỊNH (1), ĐƯỢC BÁO TIN CON
    TRAI THAM BIỆN [HỌ] NGUYỄN (2) THI ĐỖ
    KỲ THI MÙA THU (3)

    Khách ở trong [chốn] xe, ngựa, chán ngán bụi bay
    Nhớ lại khuôn viên [trường thi hương] mùa thu, tập tành làm người quan chức (thượng lưu) (4)
    Vin cây quế (5) chàng trai này xứng đáng [là] tay nắm được
    Cỡi bè (6) bọn ta chưa hề biết bến bờ!
    [Vẻ] nghiêm túc [của] gia đình, [sự] nặng nề
    [bởi] trách nhiệm, người bề tôi làm cha [là phải nhận thức và xây dựng nền nếp ấy]
    [Người được hưởng] phúc mừng (phần thưởng) [của]
    nước, [việc] khó khăn [trong] sự đền đáp, [nhưng nay] con[đã] có vua [để phụng sự]
    Mây nước khi nào quay về bến cũ
    Một gia đình [được ơn] mưa [móc], thấm nhuần ruộng đất, càng thêm tươi mới.

    (1) Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

    (2) Nguyễn Tăng Doãn (ĐNTL.CB., tập 33, tr. 42, 78...).

    (3) Thi hương, thường tổ chức vào mùa thu.

    (4) Tấn thân: người cầm hốt mà xõa tay áo đỏ (chỉ quan viên, thượng lưu). Học giỏi, làm quan, như thế cũng là bước vào giai tầng trên của xã hội (theo quan niệm phong kiến Việt Nam, không phân biệt thành phần xuất thân). Đó là con đường tấn thân (tiến thân) của kẻ sĩ.

    (5) Vin quế (“phan quế”): thi đỗ (nghĩa bóng).

    (6) Cỡi bè, nghĩa bóng: vượt qua bể học (không có bến bờ). Nghĩa này phù hợp với văn cảnh hơn là “cỡi bè” vượt qua “bể hoạn” (bể hoạn: con đường làm quan sóng gió như đi trên biển).

    54

    TẠI GIA ĐỊNH, ĐƯỢC TIN BÁO CON
    TRAI THAM BIỆN NGUYỄN TĂNG
    DOÃN THI ĐỖ KÌ THI MÙA THU

    Xa quê, chán bụi, ngựa người đua
    Nhớ thuở thi hương tiến bước xưa
    Vin quế, chàng này càng xứng nắm (1)
    Cỡi bè, đây bọn chửa hay bờ! (2)
    Nếp nghiêm, nho gánh, thần làm bố
    Đàn phúc, sĩ xây, con có vua
    Mây nước khi nào về bến cũ
    Một nhà nết đất sáng ơn mưa.


    (bản biên soạn)

    (1) Chữ “nắm” (cái nắm tay) là một danh từ, để đối với danh từ “bờ”.

    (2) Chưa bao giờ thỏa mãn trong việc học tập, cứ học hoài học mãi, dù đã đỗ đạt, ra làm quan.


    Bài 55

    ẤT HỢI NGUYÊN CHÍNH


    1. Huyền minh công thành hậu (*)
    Giáp tuất thứ kiû trừ
    Bộc trúc liên tiêu hưởng
    Điều phong lai từ từ
    5. Ngũ canh đãi lậu hạ
    Đông minh lũ vấn cừ
    Chung thanh tài báo hiểu
    Loan thanh chí chỉ thư
    Cửu trùng lí thủ tộ
    10. Bách chấp giao phu như
    Đình hạ tập bang khánh
    Điện thượng phú Gia ngư
    Trân tàng xuất thiên phủ
    Thù tình phỉ báo cư
    15. Khánh tứ triêm thừa hậu
    Chiêm y húc nhật sơ
    Tam triêu khí tải thục
    Tường quang mãn đế cư
    Nhất niên trưng hưu cát
    20. Quần sinh giai phát thư
    Hi nhiên đăng xuân đài
    Hồn nhiên lâm Hoa Tư
    Đán hề ca phục đán
    Quỳ tâm hướng nhật sư
    25. Thái Hòa thành khả lạc
    Tung huống đồng thân sơ
    Thánh tâm bất tự mãn
    Bách vi kì bật dư
    Phỉ cung nãi thần phận
    30. Hoàng tuất đồ dữ cư (cứ)
    Dân sinh hà dĩ toại
    Quốc kế hà dĩ dư
    Trù mâu thượng vị cập
    Vô phụ thử cư chư
    35. Phú cường phi biệt đạo
    Thành pháp cụ tư như
    Khuynh phủ tức phục thái
    [… Tri (?) …] dã hữu nhân dư
    Hạnh phùng dương chính trưởng
    40. Quân tử hỉ đắc dư
    Giao tu thận nguyên thuỷ
    42. Thứ ki (cơ) vĩnh chung dư (dự).


    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    phiên âm

    55

    MỒNG MỘT THÁNG GIÊNG NĂM ẤT HỢI

    1. Việc luân chuyển huyền bí xong rồi
    Năm Giáp tuất đã qua
    Tiếng pháo nổ suốt đêm
    Ngọn gió nhẹ đến chậm rãi
    5. Năm canh chờ mức nước đồng hồ hạ xuống
    Nhiều lần trông chừng xem đã hừng đông chưa
    Tiếng chuông mới báo trời sáng
    Tiếng chim loan ríu rít
    Đức vua bước lên ngôi
    10. Quần thần đứng chắp tay
    Dưới sân rồng chúc mừng
    Trên điện đọc thơ Gia ngư
    Đem châu báu ra phủ vua
    Đáp lại tình cảm không phải bằng ngọc cư
    15. Ơn vua thấm đầy
    Ngắm nhìn mặt trời mới mọc
    Ba buổi sáng không khí dịu mát
    Ánh tường quang tỏa khắp cung vua
    Hiện ra điềm tốt lành trong một năm
    20. Vạn vật đều phát triển tốt tươi
    Hớn hở lên đài xuân
    Hòa mình vào hàng quan lại
    Sáng sớm hề, ta hát đến sáng sớm mai
    Lòng hoa quỳ tươi vui theo bóng mặt trời
    25. Thái Hòa xong thật là vui
    Chúc thọ khắp người thân cũng như sơ
    Lòng đức vua không tự mãn
    Mọi người hết lòng giúp đỡ
    Dẹp phỉ là phận sự bề tôi
    30. Nhanh chóng cấp tiền cho người ốm đau tàn tật
    Đời sống của dân làm sao được toại ý
    Tiền của của nước làm sao được dư dả
    Còn chưa đến nỗi chật vật
    Chớ phụ những gì hiện đang có
    35. Giàu mạnh không phải là con đường khác
    Phương cách thành công có đủ trong mưu kế chặt chẽ
    Bỉ hết rồi thì thái trở lại
    Bởi [… biết (?) …] có người ư!
    May gặp lúc dương đang thịnh
    40. Người quân tử vui vì được xe tới đón
    Giao thiệp nên thận trọng buổi đầu
    42. Dân chúng khen ngợi mãi mãi.

    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    dịch nghĩa

    55

    ĐẦU NĂM ẤT HỢI (1)

    1. Công việc [chuyển từ] bóng tối [ra] ánh sáng (từ huyền nhiệm thành minh bạch) [đã] thành [một cách] trọn vẹn
    Giáp tuất, năm thứ hai (phục vụ tại Triều đình) [sắp] trừ tịch (2)
    Pháo trúc suốt đêm âm vang
    Gió dịu mát đến chầm chậm
    5. Năm canh (3) chờ giọt [đồng hồ] hạ thấp [mực nước trong bình] (4)
    Ánh sáng phương đông – nhiều lần hỏi ai (đã hừng đông chưa?)
    Tiếng chuông vừa báo sáng
    Giọng chim loan vang ca, lắng ngừng, thư thả
    Chín tầng (5) làm việc [: ban] vận may đầu [năm]
    10. Trăm người đồng chí hướng vái người đi qua
    [để lên ngai]
    Dưới sân [rồng] quần thần (các đại thần) chúc mừng [năm mới]
    Trên điện [vàng], [vua đọc] bài phú “Gia ngư” (6)
    Kho châu báu [:lời văn của vua] mở ra [ở] nhà trời (7)
    Đáp tình [vua], không [dám] tạ lời [như thể dâng] ngọc cư (8)
    15. Ơn huệ người trên ban thấm đẫm, nối liền, [sâu] nặng
    Thấy y như ánh sáng ban mai [lúc] mặt trời bắt đầu [mọc]
    Ba sớm mai chuyển tải không khí dịu mát
    Ánh sáng tốt lành tràn đầy nơi vua ở
    Một năm hiện ra [điềm] tốt đẹp
    20. Các sinh vật đều phấn phát nhẹ nhàng
    Vui thay [vua] lên đài xuân!
    Hồn nhiên bước vào [nước] Hoa Tư (9)
    Sớm mai, chừ, ca hát [mừng] sớm mai trở về
    Lòng hoa dã quỳ hướng về mặt trời [đang] thỏa dạ
    25. [Việc trang trọng ở điện] Thái Hòa [đã] xong,
    có thể vui vẻ
    Lời chúc ở núi Trung Nhạc (chúc vua) (10), lời tạ của người thân cũng giống kẻ sơ
    Tâm thánh thiện không tự mãn
    Bách tính (thần dân) cùng trông mong giúp đỡ, cống hiến
    Sự vâng chịu của giặc, [đấy] mới là nhiệm vụ (phận sự) [của] kẻ bề tôi
    30. Tiền trợ giúp [cho] người già con trẻ, kẻ tay làm hàm nhai [được] cấp cho [chút] thịt thà
    Đời sống nhân dân sao cho toại nguyện
    Kế sách đất nước sao cho dư dả
    Trù liệu [cả những] sai lầm [, những gì vì vậy nên] còn chưa đạt [được]
    Đừng phụ những gì [đang] ở [cùng] (những gì đang có: nhật nguyệt – ngày tháng) này
    35. Giàu mạnh không phải là con đường khác biệt
    Phương cách đạt được thành công [được] hoàn bị (chuẩn bị chu đáo) [về] sự chặt chẽ (như rễ cây đan liền) [các] ý tưởng, sách lược
    Nghiêng xuống mức kém (11), tức là cái tốt
    [sẽ] quay về
    Bởi biết [đến] người [hiền tài] (12) ư!
    May mắn [là] gặp [khí] dương cho sự phát triển chính [đạo] (vươn thẳng)
    40. Người quân tử vui mừng có xe vua [đón]
    Giao thiệp cần thận trọng như buổi đầu [không bao giờ để sự thân mật dẫn đến suồng sã] (13)
    42. Ngõ hầu tiếng tốt trọn vẹn mãi mãi!

    (1) 1875, Ất hợi, Tự Đức năm thứ 28.

    (2) Trừ tịch: Đêm [năm cũ] ra đi: đêm cuối năm.

    (3) Canh: đơn vị thời gian ban đêm (“đêm năm canh...”).

    (4) Đồng hồ nước kiểu cổ.

    (5) Cửu trùng: chín tầng (trời, bệ ngai vàng): vua

    (6) Gia ngư: con cá đẹp tốt (tên một bài phú của vua Tự Đức), [Xem mục từ Ơn sóng, TĐTNTN., sđd., tr. 477].

    (7) Thiên phủ: nhà Trời (theo quan niệm phong kiến: đồng nhất vua với Trời).

    (8) Ngọc cư: một loại ngọc quý để đeo.

    (9) Hoa Tư: tên một quốc gia mộng tưởng, không có thật, thể hiện ước vọng không còn giai cấp và sự cách bức nào cả (vua cũng như kẻ bề tôi). Đây là đoạn thơ vượt khỏi luật gieo vần (xem bản nguyên tác chữ Hán) như một niềm reo vui, hân hoan tột cùng, ngỡ là khát vọng “nhà nước mộng tưởng” đang hiển hiện, có thật. [Xem mục từ Hoa Tư, TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 366].

    (10) Tung: núi Trung Nhạc (Tung Sơn) bên Tàu. Vua Hán Võ Đế đi chơi núi Tung Sơn, bỗng nghe có tiếng chúc tụng vua ba lần. Người ta cho đó là tiếng của thần núi. Nghĩa thông thường: tiếng chúc vua. (TĐTNTN., sđd., tr. 625). Tung hô: chúc vua.

    (11) “Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cữu…”. Đại ý: cái gì quá cực đoan sẽ dẫn đến sự biến dịch, biến dịch tất phải khai thông, khai thông tất phải như cũ (trạng thái bình quân âm – dương). Lão Tử đã viết rõ về luật “phản phục”: “Vật cùng tắc biến”; “vật cùng tắc phản” (sự vật đi đến chỗ cực đoan sẽ quay ngược lại); “Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản” (Lớn là tràn khắp, tràn khắp thì đi xa, đi xa là trở về); hiểu một cách khái quát, cũng như trên đã nói: sự vật khi đi đến cực độ thì phải biến, mà biến, thì lại biến trở về cái đích của nó (xem: LTTH, sđd., tr. 44, 124). Ở đây, thể hiện rõ quan điểm biện chứng nho gia với tâm thức tam giáo đồng quy.

    (12) Nguyên bản chép sót một chữ. Có lẽ là chữ “hiền” hoặc đúng hơn, là chữ “tri”: “Dã hữu hiền nhân dư!” (?); “Tri dã hữu nhân dư”. Tạm điền chữ “tri” (tri ngộ) – diễn đạt thuật dùng người của bậc minh quân –, căn cứ vào văn cảnh.

    (13) Quan niệm ứng xử, giao tế của nhà nho Việt Nam (ngay cả trong quan hệ vợ chồng).

    55

    ĐẦU NĂM ẤT HỢI (1875)

    1. Xong việc huyền minh chuyển
    Năm Giáp tuất đã qua
    Suốt đêm vang pháo trúc
    Chậm rãi gió hiền hòa
    5. Năm canh chờ đêm cạn
    Xem chừng hừng đông xa
    Tiếng chuông vừa báo sáng
    Chim loan ríu rít ca
    Chín tầng nắm vận nước
    10. Chung lòng vái người qua
    Dưới sân rồng, mừng chúc
    “Gia ngư”, văn Thái Hòa
    Trời ban lời châu báu
    Đáp tình, đâu ngọc ngà!
    15. Ơn vua dày sâu thấm
    Mặt trời rạng, ngắm xa
    Ba sớm mai dịu mát
    Ánh lành khắp cung hoa
    Điềm năm đẹp hiện ra
    20. Muôn vật đều tươi tốt
    Hớn hở lên đài xuân
    Hồn nhiên hòa vào quan (1)
    Sáng chừ, ca sáng sớm
    Dã quỳ, mặt trời gần!
    25. Vui lắm thay, Thái Hòa!
    Thân sơ nồng tạ chúc
    Không tự mãn, lòng đức! (2)
    Tận giúp, quan dân ta!
    Phận bề tôi dẹp giặc
    30. Mau chăm người bệnh tật
    Dân toại ý mọi nhà
    Sao dư thừa tiền nước
    Chật vật chưa sao mà!
    Đừng phụ gì đang có
    35. Mạnh giàu, đâu đường lạ!
    Thành công, vững mưu xa
    Suýt nghiêng là đứng đó
    Nhờ biết dùng người a?
    May gặp khi dương thịnh
    40. Xe vua đón, sĩ ca
    Từ đầu, quen cân nhắc
    42. Dân khen mấy sau xa?


    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ

    (1) Hồn nhiên hòa vào quan, câu này chỉ tạm dịch theo ý. Thật ra, “Hồn nhiên lâm Hoa Tư”: hồn nhiên vào đất nước đại đồng mộng tưởng, không còn cách bức vua – tôi, cao – hạ nào cả.

    Dịch sát nghĩa hơn:

    “Vào Hoa Tư hân hoan”.

    (2) Một lời khuyên, nhắc nhở vua.


    Cước chú của bài thơ số 55, thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):

    (*) Các bài thơ dài, chúng tôi đánh số thứ tự để tiện đối chiếu giữa các bản (nguyên tác, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, nhuận sắc), không phải phân đoạn.




    Bài 56

    CUNG HỌA NGỰ CHẾ BÍNH TÍ
    NGUYÊN NHẬT (NHỊ THẬP VẬN)


    1. Vũ phục kim âu điện
    Nghiêu giai ngọc lịch tân
    Dương niên phùng kỉ tiù
    Đẩu bính kháp lâm dần
    5. Liù thủy tam dương hảo
    Triều nguyên bách tích tuân
    Đào phù trừ cựu tịch (tích)
    Lậu tiễn báo sơ thần
    Tượng khuyết chiêm tinh nhật
    10. Uyên hàng túc tấn thân
    Tích linh từ tấn chỉ
    Hiến thọ đế cung thân
    Giáo hiếu tiên thiên hạ
    Đôn di ngưỡng nhất nhân
    15. Thanh loan di thúy điện
    Chu phất củng nghiêm thần
    Phụ ỷ đoan nguyên vị
    Hô tung biến thị thần
    Lộc minh khuông phỉ huống
    20. Đường đệ ngạc hoa chân (chấn)
    Quỳnh tịch hương ngưng lộ
    Tiêu trường ảnh tán ngân
    Bửu phân đồng dị tính
    Khánh chí tích kim xuân
    25. Gia huệ nhân thần bá
    Nùng triêm đáo xứ quân
    Hóa quân khai thái tượng
    Thần hàn ngụ thiên chân
    Duệ toán thâm đồ trị
    30. Chu hành chính vọng tân
    Vi thần tàm bỉ ổi
    Đại tiết phạp kinh luân
    Lệ chí thường giai phủ
    Hòa trung túy nhược thuần
    35. Thể nguyên cơ quát chuyển
    Đạt thuận nhĩ hà quân
    Vũ nhuận Chu nguyên thử
    Phong thanh Hán tái trần
    Vạn niên ca đế đán
    40. Hân duyệt phổ thần dân.


    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    phiên âm

    56

    KÍNH HỌA BÀI THƠ NGÀY MỒNG MỘT
    TẾT BÍNH TÍ CỦA NHÀ VUA,
    HAI MƯƠI VẦN

    1. Áo Vũ vững âu vàng
    Thềm Nghiêu sang năm mới
    Năm dương lại gặp chi Tí
    Bính vừa đúng lúc vào Dần
    5. Bước đầu gặp được cái tốt tam dương
    Răm rắp triều nguyên
    Bùa đào tiễn năm cũ
    Thẻ đồng hồ báo trời sáng
    Đứng ở cửa khuyết quan sát sao và mặt trời
    10. Bá quan đứng thành hàng đai hốt nghiêm trang
    Trời ban thêm tuổi, thái hậu thêm phúc đức
    Vua cung kính mừng tuổi mẹ
    Dạy đạo hiếu làm đầu trong thiên hạ
    Ngưỡng mộ một người là ông Đôn Di
    15. Chim loan xanh dời đến thúy điện
    Những dây thao đeo ấn màu đỏ hướng về cung vua
    Quay lưng về phía tấm bình phong đứng nghiêm trang
    Các thị thần ai nấy đều tung hô
    Ngoài triều vua tôi vui vẻ
    20. Trong nhà anh em đầm ấm
    Tiệc quỳnh hương đọng thành sương
    Trong chén rượu ánh sáng lóng lánh như bạc tan
    Châu báu đem chia họ hàng nội ngoại
    Ghi nhớ niềm vui mùa xuân xưa nay
    25. Ơn huệ ban phát ra khắp cả
    Mọi nơi thấm đẫm như nhau
    Tạo hóa mở thái tượng
    Bút vua ngụ lòng trời
    Tính toán sâu xa là mong đất nước thạnh trị
    30. Hành động chu đáo phải trông chờ khách có tài
    Kẻ bề tôi nhỏ nhoi này thẹn vì xấu xa
    Tiết lớn thiếu mất tài kinh luân
    Trong phế phủ thường xuyên nung chí
    Say sưa trong lòng như dậy men
    35. Cơ trời sẽ chuyển dịch
    Đến hồi thuận rồi gần xa như nhau
    Mưa nhuần trên cánh đồng nhà Chu
    Gió thổi sạch bụi trên cửa ải nhà Hán
    Vạn năm ngợi ca buổi sáng của nhà vua
    40. Niềm vui tỏa ra khắp thần dân.


    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    dịch nghĩa

    56

    KÍNH HỌA BÀI THƠ
    “NGÀY MỒNG MỘT TẾT BÍNH TÍ (1)”
    CỦA NHÀ VUA, HAI MƯƠI VẦN

    1. Áo Vũ (2) vững âu vàng (3)
    Thềm Nghiêu (4) lịch ngọc (5) mới
    Năm dương (6) gặp kỉ Tiù (6)
    Sao đẩu Bính (6) thích hợp vào Dần (6)
    5. Khởi đầu [sự vận chuyển theo] dịch lí
    [lại là] ba cái dương (6) tốt
    Buổi thiết triều đầu năm, trăm [việc] khai mở
    [đều] tuân theo
    Bùa màu đỏ [vui tiễn] sự ra đi [của] năm cũ
    Mũi tên (: thẻ có vạch khấc) đồng hồ [xưa] báo
    [khắc] khởi đầu [của] sớm mai
    Cửa khuyết (7) với những hình tượng, [chừng như đang] ngắm sao [và] mặt trời
    10. Hàng chim phượng sồ là các quan cầm hốt, xõa
    tay áo đỏ [trông thật] nghiêm túc
    [Trời] ban đêm tuổi, người mẹ [của vua] tiến về [phía]
    phúc đức
    Chúc thọ, vua cung kính [thưa với] mẹ
    Dạy đạo hiếu làm đầu [cho] thiên hạ
    Đôn Di (8), [vua] ngưỡng mộ một người [ấy]
    15. Chim loan xanh [bay] dời [đến] điện sâu
    Những dây thao màu đỏ (9) xoay quanh (chầu) nơi vua ở [trông rất] nghiêm
    Tựa vào tấm bình phong đứng thẳng ở vị trí đầu
    [Các] thị thần tung hô khắp cả
    [Tiệc] lộc minh (10), [những] giỏ tre, thùng có nắp [vua] ban nhiều (11)
    20. Cây hải đường (12), [các] đóa hoa [được quây quanh bởi] các lá xanh [quanh chân hoa] phấn phát
    Tiệc đêm [với chén] quỳnh (13), hương đọng
    [thành] sương
    Chén [nồng vị] hồ tiêu (14), ảnh hình tan ra [như] bạc
    Châu báu, chừ, người cùng họ (nội), kẻ khác họ (ngoại)
    Ghi chép niềm vui, mùa xuân xưa nay
    25. Ân huệ tốt đẹp theo tinh thần [ấy] ban rắc ra
    Thấm nồng đến [mọi] xứ đều khắp
    Tạo hóa (15) khai mở hình trạng tốt đẹp
    Thành ý [của] trời ngụ [ở] bút nhà vua
    [Sự] tính toán [của] hoàng đế sâu sắc [trong các] dự định [để] cai trị
    30. Làm tròn [chức năng thiên tử] phải trông chờ [ở kẻ sĩ được quý trọng như] khách
    Kẻ bề tôi nhỏ nhoi thẹn [vì vốn trưởng thành trong]
    sự quê mùa [tại] nơi chốn gần biên ải (16)
    Tiết tháo lớn thiếu tài cứu nước giúp đời
    Chí nguyện gắng sức thường xuyên [mài sắc ở] khắp các phủ tạng [cứng bền như đá]
    Lòng hòa mục [với thiên nhiên, đồng loại, bạn bè] (17) say như thể rượu ngọt
    35. Cái lí uyên nguyên [của] bản thể [vũ trụ là] máy vận
    hành phổ quát [mãi] luân chuyển (18)
    Đạt tới lẽ thuận [thì] nơi xa,
    chốn gần đều cân bằng (18)
    Mưa tươi nhuần cánh đồng [nhà] Chu (19) [tốt] nắng
    Gió [quét] sạch biên ải [nhà] Hán (19) [ngập] bụi
    Vạn niên ngợi ca buổi sáng [của] nhà vua
    40. [Niềm] vui đẹp lòng khắp thần dân.

    (1) 1876, Bính tí, Tự Đức năm thứ 29.

    (2), (4) Hai vị vua cổ đại Trung Quốc, biểu tượng lí tưởng hóa.

    (3) Cái bình vàng (chắc bền), ví với Nhà nước.

    (5) Lịch của vua (có nạm ngọc, hoặc “ngọc” là mỹ từ).

    (6) Các khái niệm dịch lí học.

    (7) Cửa khuyết (cửa quyết), chỉ cung vua. Khuyết là lầu canh ở cung vua. Cung khuyết.

    (8) Đôn Di. Chưa tra cứu được điển này. Nếu theo chữ viết trong nguyên tác, có thể hiểu “đôn di” (chúng tôi không viết hoa – nbs.) là trau chuộng đạo thường (di luân, luân thường); ở đây là đạo hiếu.

    Cả câu: Trau chuộng đạo thường, [vua] ngưỡng vọng một người. Với mặt chữ như thế, không phải là danh tính Chu Đôn Di, triết gia đời Tống (Trung Hoa), người xây dựng nên lí học, được tôn xưng là Chu Liêm Khê, 1017 - 1073 (TĐHV., tập thượng, sđd., tr. 176).

    (9) Dây thao có đeo ấn: một trong các đồ phục sức của các đại quan theo quy định.

    (10) Lộc minh: tiệc vua ban cho các tân khoa thi hương (cử nhân); đây chỉ là sự ví von (ẩn dụ). [Xem TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 517]. Thơ Lộc minh: tên một thiên trong Kinh thi, khen vua nhà Chu đãi yến tịch (tiệc) các quan (ĐNLT., tập 3, sđd., chú thích, tr. 129).

    (11) Hẳn là các giỏ đựng thức ăn, các thùng đựng rượu.

    (12) Đường: cây đường (loại đỏ, gỗ làm cần cung; loại trắng, quả ăn được). Ân trạch của quan địa phương lưu lại gọi là cam đường. Đệ: cây đường đệ. Kinh thi có thơ Đường đệ nói về việc anh em ăn uống vui vầy [HVTĐ., sđd., tr. 300]. Ở đây, chỉ các hoàng thân trong hoàng tộc.

    (13) Tiệc quỳnh: tiệc có uống rượu với chén làm bằng ngọc quỳnh đỏ, vua chiêu đãi các tân khoa thi hội (tiến sĩ), [TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 113].

    (14) Ẩn dụ (ví von, so sánh ngầm), chỉ rượu nồng.

    (15) Tạo hóa, theo quan niệm cổ, như cái bàn xoay để làm đồ gốm (sành sứ). “Quân”: bàn xoay nặn vật.

    (16) Xem ĐNTL.CB., sđd., tập 30, tr. 170 - 172. Quốc sử quán đã ghi chép rất cụ thể, khá chi tiết:

    ... “Vua [[...]: lược bớt – nbs.] bảo bộ thần rằng: [...], ở nơi biên viễn, mà không được như Nguyễn Văn Tường, thì lợi chưa thấy, mà hại đã sinh ra, hối làm sao kịp. Bèn sai Thân Văn Nhiếp và Nguyễn Văn Tường thương lượng suy xét. Văn Nhiếp xin cho Nguyễn Văn Tường và Trần Đình Túc cáng đáng việc ấy, và đặt thêm chức tuyên phủ sứ, chọn người thổ trước để sửa sang các công việc.

    Nguyễn Văn Tường nói: các châu ở Thành Hóa đất liền với kinh đô, đời đời làm phên che giúp đỡ [...]. Còn về rừng sâu khí núi độc, thì có người đã ở quen, chịu đựng nổi; dân Man không biết gì, thì lấy sự dễ dãi để thân cận họ; biên viễn là việc quan hệ [...]. Trần Đình Túc chưa từng kinh lịch nơi đó [mặc dù Trần Đình Túc là người Do Linh, Quảng Trị – nbs.] nhưng địa thế, dân tình ở phủ hạt ấy rất là biết rõ. Thần sinh trưởng ở đất [Quảng Trị – nbs.] ấy, trước kia đã làm tri huyện ở [huyện Thành Hoá – nbs.] đó hơn chín (09) năm, năm ngoái lại đi khám xét [...]. Trần Đình Túc là người giỏi giang quen việc, tôi [:các bề tôi khác] không thể theo kịp được, nhưng về tục xứ ấy, tình người Man, thì Đình Túc chưa được hiểu rõ như thần. Xin cho thần đổi sung chức tuyên phủ sứ, và kiêm cả chức khuyến nông, phàm công việc nên làm ở bảo Trấn Lao, thì đốc sức cho huyện viên sửa sang; còn ruộng nương, việc trị thủy, đời sống của dân, điều lợi điều hại thì hội cùng với đạo thần [quan ở đạo Quảng Trị – nbs.]. Chức kinh doãn [phủ doãn Thừa Thiên – nbs.] có khuyết hoặc cho Trần Đình Túc kế thay, nhưng kiêm coi cả công việc doanh điền.

    Vua lại hỏi Trần Đình Túc, Túc cũng cho là phải, lại tự xin trông coi việc ấy tự trước đến sau.

    Vua cho là chức kinh doãn và doanh điền đều chưa có công hiệu, cũng chưa rõ được người [tức là Nguyễn Văn Tường – nbs.] có tài năng hay không, bèn sai điều giữ chức cũ. Trần Đình Túc thì kiêm biện cả nông điền thủy lợi ở Quảng Trị; còn các việc trọng đại về doanh điền của phủ đạo, nên cùng với Nguyễn Văn Tường thương lượng bàn định tâu lên, và hội đồng lựa chọn viên quản đạo, viên huyện”.


    Chúng tôi (TXA., nbs.) xin chép lại đoạn trích từ "Đại Nam thực lục, chính biên" (tập 30, sđd., số trang đã ghi ở dòng giới thiệu lời dẫn mở đầu chú thích này). Qua đó, để thấy rõ một số nét rất cơ bản về gốc gác, quê quán, nơi sinh trưởng và tinh thần tự nguyện, sẵn sàng rời bỏ cương vị cao, nơi kinh thành sang trọng, tiện nghi ở Huế để dấn thân vào chốn rừng sâu nước độc là Thành Hóa (Cam Lộ, Quảng Trị) của Nguyễn Văn Tường. Trước hết, thấy rõ Kì Vĩ phụ chánh đại thần, trung thần triều Nguyễn, người mưu trí và tài ba nhất của giai đoạn đầu chống Pháp:

    a. là người địa phương, từ lâu đời, tổ tiên từ ngoài kia sông Gianh vào sinh cơ lập nghiệp trước thời chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa trấn nhậm. Do đó, nguyên quán, nơi sinh trưởng là Quảng Trị (làng An Cư, huyện Đăng Xương [: Triệu Phong]).

    b. trải qua hơn chín năm làm tri huyện ở Thành Hóa (theo ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 103, đến 1853 mới đặt chức tri huyện ở vùng này).

    c. rất thông hiểu phong tục, tâm tình người nhân tộc thiểu số (Vân Kiều, Cà Tu, Pa-kô...) và cả người Lào xiêu tán. Như thế, Nguyễn Văn Tường chắc chắn rất giỏi tiếng nhân tộc (tiếng Thượng).

    Ngoài những lượng thông tin trên, vốn làm rõ hai chữ “bỉ ổi” (thô kệch, nơi biên ải xa xôi, quê mùa), chúng tôi xin nhân đây nhấn mạnh ngoài lề vài chi tiết khác:

    a’. Nguyễn Văn Tường xin từ chức phủ doãn ở Huế để chuẩn bị xây dựng chiến khu Tân Sở, khôi phục và mở thêm đường mòn từ Bình Định ra Nghệ An, từ thời điểm này [ĐNTL.CB., tập 31, tr. 86 - 87, tr. 89, tr. 103 (sáu điều tâu về Cam Lộ, lưu ý điều 2)].

    b’. Nguyễn Văn Tường từ chức phủ doãn còn vì lí do khác: lúc này nhân dân đang chết đói đầy cả đường kinh thành Huế (nhất là từ Quảng Nam, dân xiêu tán ra), mà Tự Đức vẫn cho tiến hành xây Vạn Niên cát địa (ĐNTL.CB., tập 30, sđd., tr. 131, 186).

    c’. Nguyễn Văn Tường được quyền cùng Trần Đình Túc chọn quan huyện, quan đạo (quan quản lí đạo Quảng Trị). Nguyễn Quýnh hẳn là người thuộc nhóm Nguyễn Văn Tường – Thân Văn Nhiếp nên được chọn làm quan quản đạo Quảng Trị (ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 86 - 87).

    Đó cũng là những lượng thông tin về ông, giúp chúng ta hiểu hơn nghĩa của chữ trong văn ngữ cảnh cụ thể:

    Vi thần tàm bỉ ổi
    Đại tiết phạp kinh luân
    Lệ chí thường giai phủ
    Hòa trung túy nhược thuần
    ...
    Vạn niên ca đế đán
    Hân duyệt phổ thần dân.


    Bỉ: miền đất gần biên giới; quê mùa, thô lậu... [Bỉ nhân (tự xưng một cách khiêm tốn)].

    Ổi: quê mùa. Bỉ ổi: quê kệch.

    Vi thần (chữ khiêm xưng): kẻ bề tôi nhỏ nhoi.

    Ý nguyên cả câu lại ngược với hai chữ Kì Vĩ (lớn lao) mà Tự Đức phong tặng, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tư Giản và nhiều người khác ngợi ca.

    (17) Hòa: không cạnh tranh.

    Chữ “hòa” của nhà nho (hòa hợp với thiên nhiên, đồng loại; không oán trời, trách người...). “Hòa trung” (tấm lòng hòa mục) gắn liền với “đại tiết” (sự cứng rắn, sự giữ vững ý chí với bản lĩnh, nghị lực lớn) và “lệ chí” (ý chí được nấu nung, mài sắc). Nếu vận dụng vào tình hình chính trị lúc bấy giờ, thời điểm 1876, chữ “hòa” ở đây còn gắn liền với ý thức về thời cơ, chờ thời cơ thuận lợi trong nỗ lực tự cường (“đại tiết”, “lệ chí”) để đạt cho được các mục tiêu: sạch bóng quân xâm lược Pháp (liên minh ma quỷ với giặc Tây Ban Nha, phỉ Tàu, lợi dụng “tả đạo” Thiên Chúa giáo làm công cụ, có chia chác quyền lợi), độc lập dân tộc, bình đẳng với các nước trên thế giới, khát vọng dân giàu, nước mạnh... Do đó, quan niệm chữ “hòa” của Nguyễn Văn Tường khi ngồi thương thuyết (đàm phán) với bọn cướp nước, “tả đạo”, không phải là chữ “hòa” nguyên nghĩa, cho dù tư tưởng ông vẫn ở trong khuôn khổ của ý hệ phong kiến độc tôn Nho giáo thời Nguyễn (“Chu nguyên”, “Hán tái”... là biểu tượng lí tưởng hóa của ý thức sử học nho gia).

    Nguyễn Văn Tường vốn là một người chủ chiến, ý thức sâu sắc rằng chỉ có thể quét sạch quân xâm lược bằng vũ trang, nhưng lại biết linh hoạt, “hòa” một cách cơ nghi (sách lược thỏa hiệp tạm thời). Nguyễn Văn Tường từng viết rõ trong tấu, sớ đệ trình lên vua Tự Đức: Chiến – Hòa – Thủ – Chiến (“Chiến” là tiên quyết và tối hậu). (Xem thêm câu đối số 1, “Tự trào”, ở phần ngoài Thi tập, sách này).

    Chữ “hòa” của Nguyễn Văn Tường được hiểu như vậy, ở từng văn cảnh cụ thể và trong suốt toàn bộ tư tưởng nghệ thuật, tư tưởng kinh bang tế thế. Tư tưởng cốt lõi chủ đạo trong hoạt động chính trị và sáng tác của ông vẫn là chủ chiến.

    Mở thêm một ngoặc đơn: “Hòa trung” còn có nghĩa là: “Tấm lòng thành ấm áp, nồng hậu” (nên mới say nồng nàn như rượu ngọt dịu nhẹ). Dù với nghĩa nào, cũng gắn bó hữu cơ với “đại tiết”, “lệ chí”, “kinh luân”, “Chu nguyên”, “Hán tái” (biểu tượng được lí tưởng hóa)... Và câu trên dịch thành:

    “Ấm lòng say rượu ngọt”.

    (18) Quan niệm biện chứng về bản thể vũ trụ (Lí khí, Đạo) và cặp phạm trù bao quát nhất: Âm – Dương.

    (19) Nhà Chu, nhà Hán ở Trung Hoa ngày xưa, vốn là biểu tượng thái bình thịnh trị (lí tưởng hóa).

    56

    “NGÀY ĐẦU NĂM BÍNH TÍ (1876)”
    (hai mươi vần)

    Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

    1. Áo Vũ vững âu vàng
    Thềm Nghiêu: lịch ngọc sang
    Dương lại gặp chi Tiù
    Bính vừa đúng lúc Dần
    5. Vận đầu, được ba tốt
    Răm rắp, xuân triều quan
    Bùa đào tiễn năm cũ
    Thẻ giờ báo hé vàng
    Mặt trời, sao, đẹp cửa
    10. Đai hốt nghiêm hai hàng
    Thái hậu, thêm tuổi phúc
    Vua mừng mẹ, lời dâng
    Gương hiếu dành cho dân
    Trau đức, lòng vua mộ
    15. Điện sâu bay chim loan
    Hướng về, ấn thao đỏ
    Trước bình phong nghiêm trang
    Thị thần hô vạn tuế
    Như tân khoa: vua quan
    20. Lá quanh hoa: hoàng tộc
    Tiệc quỳnh, hương đọng ngọc
    Chén rượu ánh bạc tan
    Nội ngoại chia châu báu
    Vui ghi xuân nghìn năm
    25. Ơn huệ ban đều khắp
    Thấm nồng mọi nẻo đất
    Tạo hóa mở lượng sang
    Lòng trời ngụ ngự bút
    Suy sâu, mong giàu nước
    30. Làm tròn, tài sĩ dâng
    Tôi nhỏ, thẹn quê kệch (1)
    Tiết lớn thiếu kinh luân
    Chí hoài nung tim óc
    Lòng hòa say rượu ngọt (2)
    35. Rộng cao lẽ chuyển vần
    Xa bằng gần, cơ thuận!
    Ruộng Chu, nắng mưa nhuần
    Ải Hán, gió quét bụi
    Sớm vua, hát muôn ngàn
    40. Vui đẹp khắp thần dân.


    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ

    (1) Lúc này Nguyễn Văn Tường đã được phong tước bá với mĩ hiệu là Kì Vĩ (lớn lao); ông tự hạ mình để khuyên nhắc vua một cách tự tin.

    (2) Xin xem chú thích (17) ở bản dịch nghĩa bài này.


    Cước chú của bài thơ số 56, thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):

    (*) Bài tấu trên có câu: “Thần sinh trưởng ở đất [Quảng Trị – nbs.] ấy, trước kia đã làm tri huyện ở [huyện Thành Hoá – nbs.] đó hơn chín (09) năm, năm ngoái lại đi khám xét [huyện Thành Hoá cùng với Thân Văn Nhiếp – nbs.]…”. Có thể khiến người mới đọc qua hiểu rằng, Nguyễn Văn Tường sinh trưởng (sinh ra và lớn lên) ở Thành Hóa (Cam Lộ), Quảng Trị; rồi suy đoán thêm: có lẽ cụ thân sinh là Nguyễn Văn Diêu bị lưu đày lên Thành Hóa do một cuộc nổi dậy nhỏ (chống cường hào ác bá? lí tưởng, tri huyện áp bức?) như Yoshiharu Tsuboi ghi nhận từ cuốn sách của linh mục Nguyễn Văn Phong, xuất bản năm 1981 [NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 268]. Lại cứ theo mạch suy đoán ấy, sẽ cho rằng: vợ chồng cụ Diêu sinh và nuôi dạy Nguyễn Văn Tường ở đất ấy.

    Tuy nhiên, “thần sinh trưởng ở đất ấy” phải hiểu là “thần sinh trưởng ở đất [Quảng Trị – nbs.] ấy”, còn Thành Hoá (huyện biên ải) chỉ là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Trị.

    Căn cứ vào tư liệu Gia phả chi tộc Nguyễn Văn của Nguyễn Văn Tường và thơ của ông, ta thấy rõ: Thân sinh Nguyễn Văn Tường, ấy là cụ Nguyễn Văn Diêu (tên thường gọi là Dậu?), sinh năm Mậu ngọ, 1798, mất ngày 11. 3. năm Quý hợi, 1863, thọ 65 tuổi. Cụ Nguyễn Văn Diêu thuộc họ Nguyễn Văn ở làng An Xá Trung, huyện Đăng Xương (nay là An Cư, Triệu Phước, Triệu Phong), Quảng Trị. Và chắc chắn thân sinh của Nguyễn Văn Tường (cụ ông Nguyễn Văn Diêu, thân phụ, và cụ bà Dương Thị Liên, thân mẫu), ít ra phải có một vị là nho sinh, giỏi chữ. Bài thơ số 14, “Đắc báo nguyên tôn sinh”, có hai câu kết:

    Trung hiếu ngô môn bồi dưỡng hậu
    Miễn tai tố nghiệp các nghi đôn.


    Lòng trung, đức hiếu nhà (họ) mình vun đắp, nuôi dưỡng đầy đặn
    Gắng nhé! [Cố sức cho] truyền thống gia phong
    cao khiết, trong sạch [hoặc vốn có], [mọi điều,
    mọi người] đều [phải] nên trau dồi [dốc sức]

    Trung hiếu họ mình đầy đặn đắp
    Gắng trau nghiệp cũ, nếp ông cha!

    (bản biên soạn)

    Trung hiếu theo quan niệm nhà nho thời quân chủ, không thể thiếu yếu tố trung quân, và trung ở đây, rõ ràng là thống nhất với hiếu (hiếu với cha mẹ). Như thế, nếu bản chép tay của Pháp (AOM. Aix, Amiraux 12774, theo Nguyễn Văn Phong và Tsuboi, sđd., tr. 268) không sai về chi tiết này (*), thì có lẽ cụ thân sinh là Nguyễn Văn Diêu bị lưu đày lên Thành Hóa do một cuộc nổi dậy nhỏ, chống cường hào ác bá, lí tưởng, tri huyện áp bức, chứ không phải chống lại triều đình nhà Nguyễn.

    (*) Nhưng lại sai về chi tiết Nguyễn Văn Tường không được đi thi vì thân sinh “đã dính líu vào một cuộc nổi dậy” (sđd., tr. 268). Ông chỉ bị cấm thi sau sự cố chữ “phúc” (ĐNTL.CB., tập 24, tr. 163 – 165; QTHKL., sđd., tr. 297).

    Chùm thơ hai bài 57. 58

    CUNG HỌA NGỰ CHẾ THI NGUYÊN
    VẬN: “NHUẬN NGŨ NGUYỆT HỘ TỪ
    GIÁ HẠNH THUẬN AN TẤN”,
    NHỊ THỦ


    57: BÀI A

    Thánh tâm nhật dưỡng ái như niên (a)
    Thân sảnh cương phùng tái ngọ thiên
    Minh nguyệt lâm giang đương thủy tạ
    Huân phong thanh thử độ lâu thuyền
    Trân tàng cự tẩm cung hào thố (b)
    Lương phất trùng yên thị thực miên
    Trường ngưỡng nhất nhân hoan phụng ý
    Hỗ tòng chu tiếp tự vong quyên (1).


    (a) Phụng châu điểm: “Phê thường điển nhi vận bút giai cố diệu. Khâm thử”.

    (b) Phụng châu phê: “Diệc diệu vận. Khâm thử”.
    (1) [quyên?].
    NGUYỄN TÔN NHAN
    phiên âm và dịch nghĩa

    57. 58

    KÍNH HỌA NGUYÊN VẦN THƠ NHÀ VUA
    LÀM: “THÁNG NĂM NHUẬN, THEO TỪ GIÁ (1) ĐI CHƠI CỬA BIỂN THUẬN AN (2)”,
    HAI BÀI

    57: BÀI A

    Tấm lòng thánh (3) [mỗi] ngày phụng dưỡng, thương yêu [mẹ] như [trọn các ngày trong] năm (a)
    Thư giãn, nghỉ mát, vừa gặp lại một lần nữa buổi trời trưa
    [này]
    Vầng trăng sáng chiếu xuống sông, ngay chính giữa nhà thủy tạ
    Ngọn gió lành lọc nắng, [gió] vượt qua [sông], [vào] thuyền có lầu gác
    Thức ăn quý cất trữ [trong] cái tẩm (: chằm, chum) lớn, [các thị tì] dâng lên món ăn thịt chặt cả xương, đồ hải sản lẫn lộn (b)
    Hơi mát thổi phất [qua] khói thuốc lá nằng nặng [bay (:bay lững lờ)]; [các thái giám] đứng hầu [nhà vua, thái hậu] bữa ăn, giấc ngủ
    Ngưỡng mộ một người [nêu gương] (4) đã lâu dài, bền bĩ, [đoàn tùy tùng] vui vẻ phụng vâng ý [thái hậu]
    [Mọi người] đi theo giúp đỡ, phục vụ, [lo] việc thuyền [rồng], chèo [quế], [nhà vua] tự quên cả mệt nhọc ưu uất.

    (1) Từ giá: xe của người mẹ nhà vua (thái hậu).

    (2) Xin xem chú thích (1), bài 58, bản dịch nghĩa.

    (3) Chỉ vua Tự Đức, người nổi tiếng có hiếu.

    (4) Vua Tự Đức rất ngưỡng mộ ông Đôn Di. Xem chú thích (8), bản dịch nghĩa bài 56. Theo văn cảnh: đoàn tùy tùng ngưỡng mộ đức hiếu của Tự Đức.

    (a) “Kính [nhận] nét điểm son đỏ [của vua Tự Đức]: “Phê [rằng]: Theo [loại] điển chế thường mà vận dụng hay, cho nên tinh diệu. Kính theo đó”.

    (b) “Kính [nhận] lời phê son đỏ [của vua Tự Đức]: “Cũng lại vận dụng tinh diệu. Kính theo đó”.

    57. 58

    “THÁNG NĂM NHUẬN
    THEO XE THÁI HẬU ĐI THĂM CỬA
    BIỂN PHÒNG THỦ THUẬN AN”,
    HAI BÀI

    57: BÀI A

    Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

    Lòng thánh phụng thờ ngày tựa năm (a)
    Trời trưa lại gặp, mát thân tâm
    Soi sông, thủy tạ ngời trăng ghé
    Lọc nắng, thuyền lầu lành gió thăm
    Cất quý tẩm to dâng cỗ béo (b)
    Phất êm khói lửng canh giường đằm
    Mãi noi một người vui vâng ý
    Quên nhọc, theo chèo, thị nữ chăm.


    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ

    (a), (b) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.

    Chùm thơ hai bài 57. 58

    CUNG HỌA NGỰ CHẾ THI, NGUYÊN
    VẬN: “NHUẬN NGŨ NGUYỆT HỘ TỪ
    GIÁ HẠNH THUẬN AN TẤN”, NHỊ THỦ


    58: BÀI B

    Hải môn kha (khả) hạm giá ngao phi
    Biến phúc từ vân thử khí vi
    Quế trạo thuận lưu thanh tế tế
    Da lâm thùy ấm lục y y
    Sa đôi cổ lũy thăng thiên hiểm
    Pháo trĩ tằng đài phục viễn uy
    Thử địa duyệt phòng tiên hiếu trị
    Nam thiên vĩnh yết Vụ tinh huy.


    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    phiên âm
    (và dịch thơ ở bài giới thiệu).

    57. 58

    KÍNH HỌA NGUYÊN VẦN THƠ NHÀ VUA
    LÀM: “THÁNG NĂM NHUẬN THEO XE THÁI
    HẬU ĐI THĂM CỬA BIỂN PHÒNG THỦ
    THUẬN AN (1)”, HAI BÀI

    58: BÀI B

    [Ở] cửa biển, thuyền lớn, thuyền binh, xe vua [như đàn] rùa biển tung bay
    Xem trọn (ôm khắp) [là] mây an lành, không khí sớm mai dịu nhẹ
    Chèo quế (3) theo dòng [nước], [tạo] âm thanh nho nhỏ
    Rừng dừa cúi bóng râm, màu xanh lá [nối] theo màu xanh lá
    Cát dồn [lên] lũy xưa, vươn [lên] trời [thế] hiểm trở [cho địch]
    Súng dựng [ở pháo] đài nhiều tầng, làm nên sự oai phong [cực kì] dài rộng
    Đất này, [vua] duyệt xét sự phòng thủ, [lấy] đức hiếu [làm] đầu để sửa trị (4)
    Trời [nước] Nam mãi mãi tỏa bày ánh sáng sao Vụ (5)!

    (1) Thuận An: cửa biển, các đồn hải phòng ở Thừa Thiên – Huế (cửa sông Hương). Xin xem Chuyện triều Nguyễn, sđd., tr. 102 - 122, các bài: “Thuận An”, “Công cuộc phòng thủ miền duyên hải”, “Một cảnh đau lòng”; ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 174 - 175.

    (2) Trạnh: con rùa lớn ở biển.

    (3) Chèo quế: chèo bằng gỗ quế; cũng là một cách dùng mĩ từ, chỉ chèo ở thuyền rồng (thuyền vua).

    (4) Theo quan niệm phong kiến Nho giáo, sĩ, dân và lính cũng phải giữ đạo hiếu với vua, như con cái hiếu với cha mẹ.

    (5) Sao Vụ: một loại sao (chưa rõ ý nghĩa là gì). Tên đầy đủ là sao Vụ Nữ (*). Có lẽ tác giả muốn nói đến đức tính của vua Tự Đức là luôn có hiếu với mẹ, chăm lo, yêu thương các bà vợ (!). Cũng có thể thấy vai trò tích cực của bà Từ Dũ, ít ra là trong giai đoạn này (tổ chức phòng thủ...). Ngôi sao chiếu mệnh của Tự Đức có tên là Từ Dũ (cũng đọc là Từ Dụ)! Bà gần như một thái thượng hoàng!

    Lời sách văn tấn tôn danh hiệu “Từ Dũ thái hoàng thái hậu”, vào tháng ba âm lịch năm Ất dậu (1883), có câu: “Băm sáu năm treo cao gương mẹ, bóng Vụ tinh soi sáng bao lần” (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 205).

    57. 58

    “THÁNG NĂM NHUẬN, THEO XE THÁI
    HẬU ĐI THĂM CỬA BIỂN PHÒNG THỦ
    THUẬN AN”, HAI BÀI

    58: BÀI B

    Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

    Thuyền xe cửa biển: trạnh rồng bay
    Trông khắp, mây lành, nắng dịu thay
    Chèo quế theo dòng, êm mát tiếng
    Rừng dừa rủ bóng, ngát xanh cây
    Cát dồn lũy cổ, vươn đồ hiểm (1)
    Súng dựng đài cao, dàn trận oai
    Chốn ấy, khám đồn, dùng hiếu sửa
    Trời Nam sao Vụ sáng ngời hoài.


    (bản biên soạn)

    (1) Có thể dịch thoát cách khác:

    Cát dồn lũy cổ, vươn cừ vững
    Súng dựng đài cao, giăng xích oai


    “Cừ” không chỉ là các thanh cây làm nòng cốt cho việc đắp lũy, mà còn là những thanh gỗ cắm xuống lòng sông để ngăn chặn tàu thuyền giặc. “Xích” cũng được giăng ngang sông để cản tàu địch tấn công. Tuy nhiên, chữ “đồ” đối với chữ “trận” (theo từ ghép “trận đồ”) cũng khá đạt.


    Cước chú của chùm thơ bài số 57, 58, bài B (58), thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):

    (*) Chữ “Vụ” gồm chữ “vụ” là “công việc, chuyên chăm” (thiếu bộ lực), và chữ “nữ” là “phụ nữ” [một chữ chỉ nghĩa, một chữ chỉ âm đọc]. Chữ “Nữ” vẫn được ghép thêm với chữ “Vụ” vừa chiết tự. Cả hai chữ thành từ ghép chính phụ: Vụ Nữ (: người phụ nữ chuyên chăm theo công việc phù hợp với sức lực yếu đuối của đàn bà). [Xem: Thiều Chửu, HVTĐ., sđd., tr. 60, 131].



    Bài 59

    HẠNH THÚY VÂN SƠN


    1. Thúy Vân hà xứ thị
    Đột ngột quần phong tiền
    Quần phong nhất tề hạ
    Độ thủy độc hoành phiên
    5. Hành cung bàng kì trắc
    Linh tích trĩ kì điên
    Đôi nhiên ngọa thạch lão
    Sâm nhiên cổ (a) mộc tiên
    Lục âm vô hạ thử
    10. Thúy sắc hữu xuân yên
    Điểu ngữ thần chung minh
    Tịch dương mê (mi) lộc miên
    Hoàn liệt mạc phỉ sơn
    Thúy Vân hà kì nhiên
    15. Thẩn hữu thần thao chu
    Nhất hoằng thanh thả nghiên
    Thừa hứng phục đăng lâu
    Nhất đới lạc bình điền
    Mỹ tai danh thắng địa!
    20. Thần du lịch hữu niên
    Ngự kiều liễn lộ xứ
    Cửu dĩ tĩnh trần quyên
    Phùng kim hạ ngũ nguyệt
    Tích (b) dư nguyệt phục viên
    25. Thiên tử mệnh duyệt vũ
    Chu sư hàm tỉ kiên
    Triêu phát Hương Giang tân
    Tiền hậu như thiền liên
    Vãn khai Thuận Trực áp (sạp)
    30. Thiều thiều vân thủy thiên
    Vạn trạo phù trung lưu
    Quân khí mộ ích kiên
    Chu khinh phong tự sinh
    Phong vi thủy tự liên
    35. Thúy Vân tiệm giác cận
    Ngật lập như trữ diên
    Đăng hoa thủy tạ mãn
    Nhiêu (nghiêu) tử nghỉ lâu thuyền
    Tiên trượng quang như họa
    40. Bồng đảo bất tiêu thiền.


    (a) Phụng châu điểm.

    (b) Phụng châu điểm.

    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    phiên âm...
    NGUYỄN TÔN NHAN
    phiên âm và dịch nghĩa

    59

    NHÀ VUA ĐI THĂM NÚI THÚY VÂN (1)

    1. Thúy Vân, [núi] ấy ở đâu?
    Cao ngất một mình [giữa] những ngọn núi phía trước
    Những ngọn núi cùng một lần hạ thấp xuống
    Vượt qua mặt nước chỉ một mình [núi ấy] đứng ngang, có vẻ dáng phong lưu, văn nhã
    5. Cung để vua đi thăm ghé nghỉ (2) ở bên cạnh, chênh chếch với nơi ấy
    Dấu tích linh thiêng đứng lẻ loi [ở] đỉnh cao nơi ấy
    Chất chồng nhưng nằm [kề nhau]: đá tảng cứng bền (già nua)
    Rậm rạp, ấy là cây cối lâu đời (a) [vẫn] rắn chắc (tươi đẹp)
    Màu xanh lá, bóng râm [như làm cho] nắng mùa hè không có
    10. Sắc biếc có khói (sương) mùa xuân!
    Tiếng nói [của] chim chóc [cùng] tiếng chuông [của] cung vua vang lên
    Buổi chiều hôm, hươu nai [đến] ngủ
    [Quân] vây quanh, giăng bày [dù] núi không có kẻ cướp
    Mây biếc sao biếc thế!
    15. Huống chi những chiếc thuyền duyệt binh [cũng] có
    tâm hồn
    Nước rộng mà sâu, trong vắt, thanh thản, đẹp tươi [như] một
    Nhân lên niềm hứng khởi, [ta] theo lên lầu
    Một dải [đất cơ hồ] rơi xuống [thành] ruộng đồng bằng phẳng
    Đẹp tươi thay [cõi] đất danh thắng!
    20. Cung vua (3) đi trải nghiệm [nơi đây] (trải qua) [dễ] có [cả] năm [trời]
    Cầu vua đi, đường xe vua qua [ở] cõi [này]
    Lâu rồi vốn dĩ tĩnh lặng, sạch bụi
    Gặp nay, tháng năm mùa hè
    Dấu xưa (b), trăng lại tròn
    25. Đấng con trời ra lệnh duyệt võ (: duyệt quân)
    Đoàn lính [thủy, giang] thuyền, tất thảy đều sánh nhau, chen [vai]
    Sáng sớm xuất phát ở bến sông Hương
    Tiền quân, hậu quân như đàn ve ve nối nhau
    không dứt
    Buổi chiều mở đập Thuận Trực (4)
    30. Cao vót, xa xăm [là] mây, nước, vòm trời
    [Hàng] vạn mái chèo nổi [lướt] giữa [dòng sông] chảy
    Khí thế quân lính, buổi chiều, càng thêm vững mạnh
    Thuyền nhẹ [lướt], gió như [do thuyền mà] tự tạo ra
    Gió nhẹ [thổi], nước cơ hồ [do gió mà] tự lan sóng
    35. [Núi] Thúy Vân dần dần thấy gần lại
    [Núi] đứng nghiêm như chờ đón đã lâu
    Hoa đèn đầy nhà thủy tạ
    Những chàng trai, cô nàng hái củi đậu thuyền [kề] thuyền lầu (5)
    Gươm, đao, gậy, côn [của] tiên, đạo sĩ [múa lên], ánh sáng [tóa ra] như [bức] tranh vẽ
    40. Đảo Bồng (6) [vẫn] không mất [nét] thiền [tâm] (7).

    (1) Núi Thúy Vân (Túy Vân), tỉnh Thừa Thiên - Huế. Xem chú thích (1), bản dịch nghĩa bài 60.

    (2) Hành cung Thúy Vân (xem ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 52).

    (3) Cung vua: chỉ chung cả vợ và con (nếu có), cùng các thái giám, thị tì đi theo vua.

    (4) Thuận Trực, cách kinh thành 15 km, bên bờ sông Lợi Giang, có một khu rừng cấm có tên ấy. Chắc trùng tên với hành cung được nhắc đến, vốn ở xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, xa hơn nhiều (xem chú thích của Viện Sử học, tập 31, sđd., tr. 258).
    Nếu không phải là địa danh, xin tạm dịch: “Buổi chiều mở xuôi thẳng [dòng nước qua] đập”. Áp (còn đọc là sạp): đập nước chắn ngang sông, chỉ có một cánh cửa, khi mở đủ cho từng chiếc thuyền đi qua (nên chiếc này, chiếc kia nối nhau; đứng ở xa, trên đồi cao, trông như đàn ve nối đuôi nhau trên cành cây), [HVTĐ., sđd., tr. 719].

    (5) Đây là một chi tiết khá lạ, bởi thời phong kiến có luật “phạm tất” (vi phạm lối cấm hay chỗ cấm lúc vua đi hoặc ghé lại). Có lẽ là hình ảnh mộng tưởng “Hoa Tư” (xem chú thích (9) bản dịch nghĩa bài số 55), hoặc “nghiêu tử” đây là các vị sư (xem từ “tiên trượng”, từ “Bồng đảo”, “thiền” ở hai câu dưới).

    (6) Đảo Bồng: đảo Bồng Lai, một trong ba ngọn núi của tiên cảnh Bột Hải, có tính chất thần thoại.

    (7) Xin lưu ý câu cuối này. Suốt bài thơ diễn tả sự hùng tráng của quân lính, nhưng kết thúc bằng một nét thanh tịnh ở cõi bồng lai của đạo Phật – cõi hiện thực. Vì sự thanh tịnh mà hùng tráng; hùng tráng để cho tâm và cảnh thanh tịnh trong ánh từ bi. Thanh tịnh, từ bi cùng với hùng tráng, với ý chí, quyết tâm diệt giặc ngoại xâm là hai mặt của một chỉnh thể tâm thức Phật giáo Việt Nam cổ truyền: “Đại hùng, đại lực, đại từ bi”.

    Ngày nay, thế giới hầu như đi vào chiến tranh kinh tế. Do đó, phải hùng mạnh cả về kinh tế, chứ không chỉ quốc phòng, mà then chốt vẫn là khoa học - kĩ thuật (công nghệ).

    (a) “Kính [nhận nét] điểm [bằng bút] son [của vua Tự Đức]”.

    (b) “Kính [nhận nét] điểm [bằng bút] son [của vua Tự Đức]”.

    59

    NHÀ VUA ĐI THĂM NÚI THÚY VÂN

    1. Nơi đâu là Thúy Vân
    Riêng vút giữa dãy trước
    Dãy núi, thấp một lần
    Vượt nước, một núi văn
    5. Cạnh hành cung, chênh chếch
    Dấu đỉnh lẻ, linh san!
    Đá xưa chồng, nằm vững
    Cây cổ (a) rậm đẹp ngàn
    Bóng xanh không nắng hạ
    10. Sắc biếc ngút khói xuân
    Lời chim, chuông sớm vang
    Nắng chiều, hươu nai ngủ
    Không phỉ núi, quân giăng
    Thúy Vân! Thúy Vân!
    – mây biếc – sao biếc thế! (1)
    15. Thuyền thao luyện có tâm
    Nước sâu, trong một vẻ
    Lên lầu, hứng càng nhân
    Một dải rơi: ruộng bằng!
    Đẹp quá nơi danh thắng!
    20. Năm nay vua hoài thăm
    Đường vua, cầu vua sang
    Đã lâu sạch bụi lá
    Gặp nay tháng năm hạ
    Dấu xưa (b) lại tròn trăng
    25. Lệnh duyệt quân, vua ban
    Sánh vai, thế lính vững
    Sớm, từ bờ Hương Giang
    Đàn ve: tiền, hậu quân!
    Chiều, mở đập Thuận Trực (2)
    30. Trời, mây, nước mênh mang
    Vạn chèo trên dòng lướt
    Hùng khí chiều hiên ngang
    Gió tự sinh, thuyền vút
    Gió khẽ, sóng tự lan
    35. Dần đến gần Thúy Vân
    Núi đứng nghiêm đợi đón
    Thủy tạ đèn hoa giăng
    Ghe tiều ghé thuyền tầng
    Như tranh, gươm bụt múa
    40. Đảo Bồng: thiền không tan!


    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ

    (1) Có thể rút gọn câu này lại, theo thể 5 chữ:

    “Mây biếc sao biếc thế!”.

    hoặc:

    “Thúy Vân, sao biếc quá!”

    (a), (b) Xin xem ở cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.

    (2) “Chiều, mở đập xuôi thẳng”. Xin xem chú thích (4) của bản dịch nghĩa bài này.



    Bài 60

    THÚY VÂN SƠN


    Phụng châu phê:
    “Tự toàn hảo. Khâm thử!” (a)

    Bất đồng linh thái duy nam củng
    Thiên tráng thần cư tác thử sơn
    Chướng (b) khứ hoành lan ngư phiếm ổn
    Ấm lưu cổ thụ điểu quy nhàn
    Viễn khan yêm ái vân thiên tụ
    Cận ấp trừng thanh nguyệt nhất loan
    Tự (c) tích thắng du đa thử địa
    Cửu trùng tâm sự trấp niên gian.


    (b), (c) Phụng châu điểm.

    NGUYỄN TÔN NHAN
    phiên âm và dịch nghĩa

    60

    NÚI THÚY VÂN (1) (a)

    [Tuy] không [lớn] bằng núi Linh Thái, [song núi Thuý Vân]
    vẫn chầu về [phương] Nam
    [Dưới] bầu trời hùng tráng, cung vua ở (tọa lạc), [tận sâu xa, chính điều đó đã] tạo nên ngọn núi này
    [Ấy là] tấm bình phong (b) loại trừ [các đợt] sóng lớn [tiến vào hàng] ngang, dân đánh cá lênh đênh [trên đầm phá một cách] yên ổn
    [Núi có] bóng mát đọng lại [ở bao] cây cổ xưa (: cổ thụ), chim chóc [bay] về nhàn nhã
    Nhìn xa xa [trông như] ướp muối [trắng], [hơi mây]
    ngùn ngụt, mây [che trên] ngàn ngọn núi
    Lui [lại], gần gũi, [thấy] trong lặng, xanh biếc [như lọc],
    [ánh] trăng [trải khắp] một đầm phá
    Từ (c) trưóc, đã đi ngắm cảnh đẹp nhiều [lần ở] đất này
    [Vẫn biết] nỗi lòng [của] cửu trùng (3) [trong] thời gian hai mươi năm.

    (1) Núi Thúy Vân, thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 130 ghi: “Ở phía đông bắc huyện Phú Lộc; phía tây núi kề phá Hà Trung; trước [núi này] gọi là Mĩ Am, năm Minh Mệnh thứ 6, cho tên là núi Thúy Hoa, năm Thiệu Trị thứ 1 đổi tên hiện nay; có bài bia ghi thắng tích Thúy Vân”.

    (2) Linh Thái còn là tên khác của núi Quy Sơn (núi Ruà) [ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 130 - 131).

    (3) Cửu trùng: chín tầng; chỉ nhà vua.

    (a) “Kính [nhận] lời phê bằng mực son đỏ [của vua Tự Đức]: “Gần như hay đẹp hoàn toàn. Kính vâng [theo] đó [nhé]!””.

    (b) “Kính [nhận] điểm nét son đỏ [của vua Tự Đức]”.

    (c) “Kính [nhận] điểm nét son đỏ [của vua Tự Đức]”.

    60

    NÚI THÚY VÂN (a)

    Không cùng Rùa thánh, nam chầu đây
    Vua ở, trời hùng tạo núi này
    Dải (b) chặn sóng ngang, buồm thả ổn
    Bóng lưu cây cổ, chim nhàn đầy
    Ướp mờ xa ngắm nguồn mây tỏa
    Lọc biếc gần lui phá nguyệt say
    Từ (c) trước viếng hoài miền cảnh đẹp
    Hai mươi năm! Lòng vua chưa phai...


    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ

    (a), (b), (c) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.

    (1) “Lòng vua, hai chục năm, chưa phai…”.

    Hoặc:

    “Lòng vua hai kỉ cứ buồn cay… ”.


    Bài 61

    TƯ HIỀN TẤN


    Bình thành Vũ tạc sơ
    Trạch quốc điện môn lư
    Liễu nhiễu quần phong bão
    Oanh hồi nhất thủy từ
    Hà Trung thu tích hậu
    Thuận tấn chuyển lưu thư
    Ba ổn trung lưu tiếp
    Phàm quy viễn phố ngư
    Trùng dương thông nhãn xứ
    Vạn hác củng Triều dư
    Vi (vị) (a) báo hoàn trung thủy
    Mang mang hải lượng hư.


    Phụng châu phê: Nhĩ thức lực giai khả đáo, bất chuyên cử nghiệp dĩ dã; đãn bạc, chi bất vi, nhĩ diệc bất hạ dã; hà xích, phiền; nhị thủ giai vô tì, vô biểu hiện (kiến).

    Khâm thử!
    (b)

    (a) Phụng châu điểm.

    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    phiên âm
    (và trích dịch ở bài giới thiệu).
    NGUYỄN TÔN NHAN
    phiên âm và dịch nghĩa

    61

    CỬA BIỂN HẢI PHÒNG TƯ HIỀN (1)

    [Công] bình định, làm nên (2)
    [của] vua Vũ (3) là đã rạch ròi, thông suốt [bờ cõi]
    Ơn huệ [của] nước [là đã giúp dân] vững chãi nhà cửa
    Những ngọn núi quanh co, vấn quanh, ôm lấy
    Con suối [nhỏ] vòng quanh lại [một dòng nước] chậm rãi
    [Phá] Hà Trung (4) thu lấy, dồn chứa đầy ắp
    Cửa hải phòng Thuận [An] chuyển động,
    tuôn chảy thư thả
    Sóng êm ả, giữa dòng [là thuyền với] mái chèo
    [Các] cánh buồm quay về bến cá xa
    Biển cả (: trùng dương) [là] nơi mở thông [tầm] mắt
    Nước khe núi, ao hồ chầu về ư?
    Bởi (a) [muốn] báo đền trong cõi hoàn vũ (cõi đất trời) [bằng] nước
    [Nên] lai láng, xa xăm; lượng biển (sức chứa của biển, tấm lòng của biển) [thế đấy mà cũng như thể] không có gì (: hư vô)! (b) (5)

    (1) Thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. Xem chú thích (2), bản dịch nghĩa, bài 63.

    (2) Bình thành: do bốn chữ “địa bình thiên thành” (sửa sang, tổ chức lại việc dưới đất; làm cho nên, cho an ổn sự lệ trên trời). Nghĩa bóng: sửa trị mọi việc quan trọng. [Bửu Kế, TĐTNTN., sđd., tr. 71].

    (3) Vua Vũ ở Trung Hoa cổ đại, lập nên nhà Hạ.

    (4) Cửa biển phòng thủ Thuận An và Tư Hiền thuộc đất kinh sư (thủ đô, Thừa Thiên – Quảng Trị) do triều đình trực tiếp quản lí, chỉ đạo. Xem chú thích (1) về cửa Tư Hiền, bản dịch nghĩa bài thơ số 58 và chú thích (2) bài số 63.

    (5) Khái niệm “hư vô” của Lão Tử. Xin xem chú thích (5) của bản dịch nghĩa bài số 34 và chú thích (13) ở bản dịch nghĩa bài số 65.

    (a) “Kính [nhận] điểm bút son [của vua]”.

    (b) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua]: “Kiến thức của ngươi đều thấu đáo, [nên nói] không chuyên về dạng chỉ học cốt để thi cử mà thôi, là phải vậy! [Nhưng] chỉ một mình [ngươi làm thơ] ít ỏi; ấy là [bởi] không [chịu] làm; vậy cũng thật [ngươi] cũng không được rảnh rỗi. Sao một thước [chữ = một, hai cột chữ thôi]? Bận việc quá ư? Hai bài đều không có tì vết gì, [nhưng] cũng không lộ liễu gì [tức là ý tứ kín đáo; sâu kín là ưu điểm trong thơ]! Kính vâng đấy nhé!”” – [Lời châu phê của vua Tự Đức].

    Hẳn nhà thơ Nguyễn Văn Tường không chỉ bận công việc của một thượng thư Bộ Hộ, Thương bạc đại thần (phụ trách ngoại giao), mà ông còn bận lòng cho những bài thơ tâm huyết của mình. Thơ thù tạc, đúng hơn là thơ “tụng ca”, làm để xướng họa với đế vương, hẳn là quá đỗi... khó lòng!

    61

    CỬA BIỂN HẢI PHÒNG TƯ HIỀN

    Bình thành như Vũ thưa
    Ơn nước, xóm vàng mùa
    Núi lượn từng cung ấp
    Khe vòng một suối thư
    Hà Trung thu chứa mộng
    Cửa Thuận chuyển xuôi mơ
    Chèo rẽ dòng sóng lặng
    Buồm về bến cá mờ
    Bể khơi thông mắt đấy!
    Ngòi lạch chầu triều ư?
    (a) Đền đất trời: tình nước
    Biển lòng rộng hư vô! (b)


    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ

    (a), (b) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.



    Bài 62

    NGUYÊN ĐÁN TẢO CỨ QUẢNG YÊN
    TUẦN PHỦ HỒ TRỌNG LIỄN MÃ ĐỆ
    TRIỆP TỰ QUAN BINH ĐẠP BÌNH
    PHÙ LONG PHỈ SÀO,
    NHÂN CHÍ KÌ SỰ


    1. Ngã hoàng phủ thử chước khoan nghiêm
    Thiên đạo âm dương hỗ hiển tiềm
    Hàn uy phủ khước đông tiền lạp
    Xuân dương dĩ phổ nhân đồng chiêm

    5. Lí đoan vạn tượng chính tân sảng
    Si mị tận tiêu thiên nhật lãng
    Đình liệt bái khánh sâm y quan
    Thúc văn tiệp tấu bình tặc đảng

    Tu lai mã đệ Quảng Yên đồng
    10. Hỉ kiến biên thần tự chiến công
    Ngưỡng duy miếu đường thụ thành toán
    Kháp triï thái vận phương hưởng thông

    Ngã quốc hải đông dữ Thanh tiếp
    Nhất đới cát đồ (1) liên u chung
    15. Thanh lại kế cùng lân vi hác
    Trì ngư vô đoan tao bỉ hung

    Thanh tướng lưỡng lâm vô thốn hiệu
    Đạn nan chung thị di khấu sao
    Kình huyệt thố quật một gian xuất
    20. Niên lai biên manh khổ náo sao

    Thuấn đức đản phu giác giã mê
    Tự tây tự đông ngật (cật) thanh giáo
    Tranh nại động đình chướng kí thâm
    Nan cách nhĩ tâm dịch nhĩ mạo

    25. Chu sư ninh hoãn tiêm cừ khôi
    Phù Long nhất cổ thiên hiểm thôi
    Tướng biền dụng mệnh vô kiên địch
    Thanh linh hách trạc võ công khôi

    Kỉ công hựu thích hành khánh điển
    30. Phàm bách nhung thần thị chi miễn
    Thùy vị ba đào bất khả khai
    Vạn lí trùng dương tương tận quyển

    Vãng phục hóa cơ thuấn tức chuyển
    Tương cơ yếu tại lượng thâm thiển
    35. Tự cương duy thánh thể càn nguyên
    36. Ngu thần thiết nguyện sách nô kiển (2).



    Tự Đức nhị thập bát niên, chính nguyệt, nhị thập nhật, thần Nguyễn, phụng ứng chế (a).

    (1) Cát Bà, Đồ Sơn?

    (2) [kiển? trại?].

    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    phiên âm
    (và trích dịch ở bài giới thiệu)
    NGUYỄN TÔN NHAN
    phiên âm và dịch nghĩa

    62

    SÁNG SỚM NGUYÊN ĐÁN, THEO TUẦN
    PHỦ QUẢNG YÊN (1) HỒ TRỌNG LIỄN (2)
    [QUA] NGỰA [TRẠM] ĐỆ TRÌNH TẬP TÂU
    [VỀ VIỆC] QUAN QUÂN DẸP YÊN Ổ PHỈ
    [TẠI] PHÙ LONG (3), NHÂN [ĐÓ] GHI CHÉP
    [LẠI] VIỆC ẤY

    1. Vua ta vỗ về [giặc] ấy [để tình hình yên ổn],
    lường liệu, châm chước giữa khoan thứ
    [và] nghiêm khắc
    Đạo Trời, âm [và] dương cùng [tác động] lẫn nhau, hiển hiện hoặc ẩn kín
    [Sự] oai nghiêm lạnh lùng vừa xua đuổi mùa đông trước [tháng] cuối [năm]
    Ánh sáng mùa xuân đã [tỏa] khắp, [mọi] người cùng ngẩng mặt mà trông
    5. [Việc] sửa trị [một cách] ngay thẳng vạn điều (phép tắc) [cho] đúng đắn, mới mẻ, sáng sủa
    Ma quỷ tan hết, ánh ngày [của] bầu trời tươi sáng
    Sắp hàng ngang [ở] triều, [các quan] lạy mừng, áo mão quan viên nghiêm chỉnh
    Bất chợt, nghe tin báo về, tấu trình [đã] bình định bè đảng giặc phỉ
    Bỗng ngựa [trạm] (4) đệ trình cái ống tre [đựng công văn của tỉnh] Quảng Yên (3)
    10. Vui mừng thấy kẻ bề tôi [ở] biên ải trình bày
    chiến công
    Ngẩng mặt suy tưởng (= kính nghĩ), triều đình trao cho kế sách [để] làm xong việc [dẹp phỉ]
    Vừa đúng gặp được vận tốt [nên] mới hưởng sự vẻ vang (thông đạt)
    Phía đông biển nước ta với [biển nước] Thanh (5) [ranh giới] liền [nhau] (6)
    Một dải [đất], loại cây cỏ leo bò [trên đất], bùn sình [cùng liền], liền [cả tiếng] chuông sâu lắng
    15. Quan lại [nhà] Thanh tính hết kế [vẫn để tình] láng giềng thành ao, lạch (hang hốc)
    Cá ao, không nguyên cớ (vô cớ), gặp phải
    sự hung ác kia (7)
    Tướng [nước] Thanh hai lần vào [trận], không [một] tấc (8) hiệu quả
    Ngại [trước] khó khăn, cuối cùng, [chính việc] ấy [đã] để sót bọn giặc cướp bóc
    Hang cá kình, hang thỏ, mở (đào) ra [nơi] chìm khuất (hầm ngầm)
    20. Năm qua, dân biên ải đi ngang [phải] đắng [cay],
    náo động
    Đức [của] vua Thuấn (9) [hóa ra là] sự lừa dối đủ [cách], mê mờ ấy là tỉnh táo!
    Từ phía tây, từ phía đông không còn cả dự dạy dỗ [dù chỉ dạy dỗ bằng] tiếng nói!
    Vì sao tranh đoạt [từng] cái hang, [từng] cái sân,
    [từng] bức bình phong? [Sự việc này đã được] ghi khắc sâu đậm
    Khó thay đổi được tâm địa chúng mày, gương mặt [hay hình tượng (10)] chúng mày
    25. Sư đoàn (quân lính) [lần lượt thay phiên theo]
    chu kì (11) cớ sao lại ngừng việc giết sạch
    bọn đầu đàn (thủ lĩnh của phỉ)?
    Một chiếc trống Phù Long [cũng là] muôn vàn [thế trận] hiểm độc xô lấp [hang ổ ở núi]
    Tướng võ vâng mệnh lệnh [vua ban], không còn quân địch vững mạnh
    Oai linh [của] giọng tiếng, sự rửa [hờn] hừng hực lửa, công lao chiến đấu bậc nhất [của tướng sĩ ta]!
    Ghi chép công lao lại đúng dịp tiến hành điển
    lễ vui mừng (12)
    30. Hễ là [người thuộc vào] hàng trăm quan võ bề tôi, [được] báo cho biết để ra sức
    Ai bảo sóng lớn không có thể loại bỏ
    (làm êm lặng) được?
    Vạn dặm biển trùng trùng sắp sửa cuốn sạch tất thảy [bọn giặc đầu sỏ]
    Đi qua – trở lại [theo lẽ âm dương tuần hoàn], cái máy chuyển hóa (: máy huyền vi) (13), [trong] chớp mắt, [trong một nhịp] hơi thở, [sẽ] chuyển xoay
    Cùng với cái máy [tạo hóa] (13), [việc] trọng yếu còn [phải] đo lường nông hay sâu
    35. Tự mình [ở] chỗ giới hạn [của mình mà] suy nghiệm:
    thánh thể (14) [nhà vua là] khởi đầu
    của quẻ Càn (15)
    36. Kẻ bề tôi ngu muội (16) trộm mong mỏi
    [tự] thúc roi con ngựa xấu chậm chạp.

    (1) Tỉnh Quảng Yên thời Nguyễn, nay thuộc Quảng Ninh.

    (2) Hồ Trọng Đỉnh (xem ĐNTL.CB., sđd., tập 33, tr. 159).

    (3) Phù Long (tên một hòn đảo), thuộc tỉnh Quảng Yên xưa (xem ĐNNTC., tập 4, sđd., tr. 32).

    (4) Ngày xưa, để đưa công văn và tiện cho nhiều việc khác của nhà nước phong kiến, người ta thiết lập các trạm dọc đường, phương tiện là ngựa, gọi là ngựa trạm.

    (5), (6) Biển Bắc Bộ, ngoài khơi xa, có hải phận của đảo Hải Nam thuộc Trung Hoa. Trung Hoa bấy giờ là Đại Thanh.

    (7) Cách nói ẩn dụ: nhân dân ta (cá ao) trước hiểm hoạ là bọn giặc phỉ, tàn dư Thái Bình thiên quốc Tàu.

    (8) Tướng Thanh: Phùng Tử Tài, Đảng Mẫn Tuyên... Một tấc thước ta: 4 cm; tức là một chút, một tí...

    (9) Vua Thuấn: vua nhà Ngu bên Tàu, thời cổ xưa. Ở đây là chỉ quân Thanh với ý mỉa mai.

    (10) Chỉ bọn giặc Cờ (tàn dư của Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa). Xin xem chú thích (2) bản dịch nghĩa bài 4.

    (11) Vua Chu? Chữ “chu” là chu kì? Với nghĩa nào cũng nhằm chỉ quan quân thuộc triều Nguyễn nước ta. Vua Chu, thuộc cổ đại Trung Hoa, vốn là biểu tượng cho minh quân, được lí tưởng hóa.

    (12) Dịp mừng xuân Ất hợi, 1875 [xem chú thích (2) phía trên]. Dịp này, Tự Đức có làm một bài thơ về chiến thắng ở Phù Long.

    (13) Quan niệm về tạo hóa của nho sĩ ngày xưa. Nguyễn Gia Thiều trong Cung oán ngâm khúc đã từng viết về “cơ trần”:

    “Máy huyền vi đóng mở khôn lường...”
    (CONK., d. 50)

    “Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán...”
    (CONK., d. 73)

    “Cái quay búng sẵn trên trời...”
    (CONK., d. 91)

    Ở đây, nhà thơ Nguyễn Văn Tường quan niệm theo lẽ biến dịch âm – dương của Kinh dịch, một quan điểm biện chứng Phương Đông (xem lại câu 1, 2).

    (14) “Thánh thể” (thân thể của bậc thánh, thần), từ tụng xưng quy ước về “lễ” (một giềng mối lớn, thường hằng, trong tam cương, ngũ thường). Đây là “lễ” trong cách xưng hô trước “thánh thượng”, “thiên tử” của kẻ bề tôi (hạng tôi tớ) (!). “Trẫm”, lại là đường chỉ khâu áo giáp cho binh tướng.

    (15) Quẻ Càn tượng trưng cho Trời, ở đây chỉ nhà vua. Xem chú thích (14), bên trên.

    (16) “Ngu thần”, từ tự khiêm xưng của quan lại trước vua. Các kẻ sĩ, quan chức nho giáo còn dùng các từ như “bỉ nhân” (kẻ quê mùa), “thiểm” hoặc “thiểm chức” (người làm quan biết nhục nhã, xấu hổ) khi nói với kẻ dưới phận, dưới chức, so với bản thân. Đó là tập quán văn hóa ở Đông Nam Á. [Xem TĐTV., sđd., tập hạ, tr. 404].

    (a) Lời tác giả Nguyễn Văn Tường cuối bài thơ:
    “Ngày 20 tháng giêng, năm Tự Đức thứ hai mươi tám [1875, Ất hợi – nbs.], thần: Nguyễn, kính cẩn đáp lại bài thơ vua làm”.

    62

    SÁNG SỚM ĐẦU NĂM, THEO TUẦN
    PHỦ QUẢNG YÊN HỒ TRỌNG LIỄN
    (ĐỈNH) VỚI CÁC TẬP TẤU SỚ
    ĐỆ TRÌNH QUA NGỰA TRẠM VỀ VIỆC
    QUÂN BINH DẸP YÊN Ổ PHỈ TẠI PHÙ
    LONG, NHÂN ĐÓ GHI CHÉP LẠI
    VIỆC ẤY

    1. Vua vỗ yên giặc, khoan và nghiêm
    Đạo trời âm dương, kín và rõ
    Trước chạp, oai lạnh đã xua đông
    Ánh xuân vốn rộng, dân ngẩng trông

    5. Sửa trị vạn điều, đúng, mới, sáng
    Ma quỷ hết sạch, ánh trời tươi
    Lệ triều lạy mừng, nghiêm áo mão
    Chợt nghe tin thắng, giặc vỡ rồi!

    Bỗng ngựa dâng ống, tấu Quảng Yên
    10. Vui thấy chiến công quân vùng biên
    Ngẩng suy, Triều đình trao kế dẹp
    Vừa gặp vận tốt, vinh nối liền

    Nước ta biển đông kề biển bạn
    Chung ngọn cỏ bùn tiếng chuông chung
    15. Thanh cạn, láng giềng thành hang hốc
    Cá ao vô cớ gặp ác ngông!

    Tướng Thanh hai lần không chút thắng
    Ngại khó, rốt cùng sót giặc cắn
    Hang kình lỗ thỏ, cướp phục hầm
    20. Năm trước qua ải, dân khóc đắng!

    Đức Thuấn lắm lừa?! Mê là tỉnh!
    Vắng tiếng dạy khuyên, đông sang tây
    Sao tranh sân, rào? Đành khắc đậm!
    Khó đổi dạ mày, khuôn mặt mày!

    25. Quân ta hoãn diệt đầu mục sao?
    Tiếng trống Phù Long muôn hiểm:
    Nhào!
    Tướng võ tuân lệnh, hết giặc mãnh
    Oai giọng, rửa hờn, lừng công cao

    Ghi công đúng dịp mừng khánh lễ
    30. Trăm quan được rõ, thêm mạnh kế
    Ai bảo sóng to không thể êm?
    Bể vạn dặm cuốn cùng sạch bể!

    Qua – lại, máy huyền, chuyển chớp mắt
    Thế cơ, lẽ trọng ở nông sâu
    35. Nghĩ trong giới hạn: Càn – thánh thể
    36. Tôi mong quất tôi, ngựa đua lâu (a).

    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ

    (a) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.


    Bài 63

    CUNG HỌA NGỰ CHẾ: ĐOAN NGỌ
    VÃN PHIẾM CHU HÀNH HẠNH
    TƯ HIỀN TẤN


    Phụng châu phê:
    “Cận lai học tiến, khả hỉ.
    Khâm thử!”
    (a)

    Huân phong vãn tống thủy sơ bình
    Tam cổ thiên sưu (tao) phóng trạo hành
    Chính vị duyệt phòng môn tỏa trọng
    Phi quan cạnh độ phiến phàm khinh
    Tà dương thiên ngoại vân phong họa
    Tân nguyệt giang đầu kính hạm minh
    Chu tiếp tàm vô thương bật trợ
    Thừa (b) phong thượng kí phấn bằng trình.


    Phụng châu phê:
    “Chí khí sở vị lão nhi ích tráng” (c).
    (b) Phụng châu điểm.

    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    phiên âm...
    NGUYỄN TÔN NHAN
    phiên âm và dịch nghĩa

    63

    KÍNH HỌA THƠ NHÀ VUA LÀM: CHIỀU TỐI
    NGÀY ĐOAN NGỌ (1), ĐI DU THUYỀN THEO
    CUỘC ĐI THĂM CỦA HOÀNG ĐẾ ĐẾN CỬA
    HẢI PHÒNG TƯ HIỀN (2) (a)

    Gió lành buổi chiều hôm đẩy đưa [dòng] nước bắt đầu lặng lờ
    Ba hồi trống, ngàn (3) chiếc thuyền buông [xuống nước vạn] mái chèo [để] khởi hành
    Sự đúng đắn, [ấy là] tiến hành việc khám duyệt [đồn lũy] phòng thủ, [những] chốt khóa cửa [biển] – [các việc vốn được coi là] hệ trọng
    Cái sai lầm, [đó là] quan hệ cạnh tranh [ở] việc vượt sông, [các] cánh buồm – [những việc thuờng bị xem] nhẹ! (hoặc: chẳng quan hệ gì đến chuyện đua bơi [mà] cánh buồm [nhẹ] lướt)
    Vầng dương lặn (tàn, úa) ngoài trời, mây [và] ngọn núi [như] vẽ tranh
    Mặt trăng mới mọc (hoặc: trăng non) đầu sông, [tấm] gương [và] thuyền binh [cơ hồ tự] tỏa sáng
    Thuyền, mái chèo thẹn thùng không luận bàn giúp đỡ [việc chèo chống: việc nước]
    Theo (b) gió, ngõ hầu ra sức phấn kích đường [bay] chim đại bàng (c).

    (1) Đoan ngọ (đoan dương: mặt trời ngay thẳng, chiếu thẳng): 5 tháng 5 âm lịch.

    (2) Tư Hiền, thuộc Thừa Thiên (xem ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 175 - 177).

    (3) Ngàn, vạn (các con số tượng trưng): nhiều lắm.

    (a) “Kính vâng [chép lại] lời phê bút son đỏ [của vua]: “Gần đây, học tập [có] tiến bộ. Đáng mừng. Kính theo đó””. Đúng là lời phê của đế vương!

    (b) “Kính vâng [nhận] nét điểm bằng bút son đỏ [của vua]”.

    (c) “Kính vâng [chép lại] lời phê bút son đỏ [của vua]: “Chí khí – điều ấy nói lên [rằng] – cứng bền (già) mà càng thêm mạnh mẽ (trai tráng)””.


    63

    “CHIỀU TỐI NGÀY ĐOAN NGỌ, ĐI DU
    THUYỀN THEO CUỘC ĐI THĂM CỦA
    HOÀNG ĐẾ ĐẾN CỬA HẢI PHÒNG TƯ
    HIỀN” (a)

    Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

    Chiều tiễn, nồm ru, nước lặng ngày
    Trống ba, ngàn chiếc phóng chèo ngay
    Khám đồn, bảo đúng: then sông tỉnh
    Tranh vượt, nhìn sai: buồm lái say
    Nắng xuống ngoài trời mây núi vẽ
    Trăng non đầu sóng ánh thuyền lay
    Lái dầm, những thẹn không lo giúp
    Bừng sức gió (b) nhân, bằng vút bay (c).


    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ

    (a), (b), (c) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.


    Bài 64

    HÀ TRUNG ĐẠO TRUNG TÁC


    Thập lí huân phong phất hạm khinh
    Giang sơn toàn bức nhãn tiền trình
    Quần (a) phong nam củng thần kinh tráng
    Chúng thủy đông triều hải lượng hoằng
    (hoành)
    Tuần nhạc cửu đồng chiêm Thúy Lĩnh
    Thao sư hà tất tạc Côn Minh
    Thần du tận thị ưu dân kế
    Đáo xứ hương bồn giáp (1) đạo nghinh.


    (a) Phụng châu điểm.
    (1) [hiệp?].

    VŨ ĐỨC SAO BIỂN
    phiên âm
    (và dịch thơ ở bài giới thiệu)

    64

    VIẾT TRÊN ĐƯỜNG HÀ TRUNG (1)

    [Suốt] mười dặm (2) gió mát thổi [đẩy giúp], chiếc thuyền binh nhẹ nhàng [lướt]
    Toàn bức [tranh] núi sông [như] bày ra trước mắt
    Mọi (a) chóp núi [các nước] phương nam đều hướng về kinh đô nhà vua hùng tráng
    Các con nước phía đông thảy chầu quanh sức chứa
    (: tấm lòng) [của] biển rộng lớn
    Tuần xét núi lớn, cùng ngắm lâu Thúy Lĩnh (3)
    Luyện tập quân binh, đâu cần mở thông qua Côn Minh (4)
    Nhà vua đi [khám duyệt] tận nơi đó, ưu tư [về] kế sách [lập trận địa] lo cho dân
    Đến nơi đến chốn [như vậy, nên] bình [xông trầm] thơm [ở các] đường [làng], bến đò [đều dọn bày ra để] đón chào (5).

    (1) Hà Trung, thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên (không phải Hà Trung thuộc huyện Do Linh, Quảng Trị).

    (2) Dặm (đơn vị đo chiều dài đường đi ngày xưa).

    (3) Thúy Lĩnh: đỉnh núi Thúy Vân (nay quen gọi là Tuý Vân). Thúy Lĩnh (hay Thúy Sơn) là cách ghép, lược bớt chữ, nhưng được dùng như địa danh, nên tạm viết hoa cả hai chữ, ở trường hợp trong bài thơ này.

    (4) Côn Minh: có lẽ là một thành phố ở Trung Quốc (A. Kunming, thuộc tỉnh Vân Nam). Trong thực tế, có một số lính, quan được sang nước Thanh (Trung Hoa) để tập huấn quân sự theo sự giao hảo của hai Triều đình (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 160).

    (5) Nghi thức nhân dân nghênh đón nhà vua (ai không tuân theo, sẽ bị tội “bất kính” và “phạm tất” [“tất”: dọn dẹp đường sá cho vua đi]).

    (a) “Kính [nhận nét] điểm son [đỏ của vua Tự Đức]”.

    64

    VIẾT TRÊN ĐƯỜNG HÀ TRUNG

    Mười dặm gió lành thuyền vượt mau
    Núi sông trước mắt – tranh phơi màu!
    Kinh vua hùng mạnh, (a) Nam sơn phục
    Lượng biển rộng sâu, Đông hải chầu
    Xét núi, ngẫm nhìn đèo Thúy ấy
    Luyện quân, cần trổ nẻo Côn đâu!
    Người đi tận đó, lo dân trận (1)
    Nơi đến, bình hương lối nhỏ chào.


    (bản biên soạn)

    (1) Nguyên văn: “dân kế” (kế sách vì dân, lo cho dân; trận thế lòng dân [lấy sự đoàn kết lòng dân làm trận địa đánh giặc]; trận thế của dân).

    (a) Xin xem cuối phần chú thích bản dịch nghĩa bài này.

    Bài 65

    CUNG HỌA NGỰ CHẾ:
    “THỰC NGẠC NGƯ”


    1. Duy bỉ ngạc hề hà như bỉ
    Đổ vật linh nhân tích niệm khỉ (khởi)
    Vô ngạc nguyên phi vi ngạc bi
    Hữu ngạc năng vô nhân ngạc hỉ
    5. Nam trung địa sản tố vi nhiêu
    Ngạc sinh kì gian nhất vật nhĩ
    Mậu đức phổ đồng cảm nhược thiên
    Noãn dục tằng kinh kỉ niên kỉ
    Quy giao lượng bất thiểm sở sinh
    10. Khởi loại trường xà dữ phong thỉ
    Tuy phi (a) giảo sính vi uyên khu
    Tha tộc khẳng linh bức xứ thử
    Giang hồ hoành khí thiếu tuần nhân
    Miếu điện hoàn kham cung hưởng tự
    15. Tuế thường sung cống phi hảo trân
    Vật chí thổ nghi bất khả dĩ
    Tam thập niên lai nhị (b) thập niên
    Truy ức tích kim hồ bất tự
    Phong kình kết võng thiết thần tư
    20. Hạ quý hải môn phương tuần thị
    Long đĩnh phi tường cáp lộ gian
    Tiên tất tạm đình Thai Dương chỉ
    Giải ngư hà bạng tranh hiến tiền
    Đế giám bồi hồi vị vô nhĩ
    25. Phi tiềm ngưu chữ đãi hà thanh
    Tương nhiếp long môn đồng dược lí
    Cự tòng dương ngoại khóa thân lai
    Quản tận phong đào thiên vạn lí
    Tố du bất tùy Tây thượng ngư
    30. Triều tôn đãn hướng Đông lưu thủy
    Mỗi hoài thủy thổ bất thăng (thắng) tình!
    Cố thác tha nhân khắc (c) quyết phỉ
    Gian lao hạnh đắc kiến quân vương
    Hoàng tuất thử gian sinh dữ tử
    35. Tiến tân thiếu ủy cửu trùng tâm
    Tứ dư hạ cập bách khanh sĩ
    Thác vật thiên chương cảm khái thâm
    Thôi thực quân ân đa thả chỉ
    Hòa canh cửu tự quý phi tài
    40. Kim ngư duy nguyện lao đắc mĩ
    Niệm ngạc đương niên thẩm phục
    nhung
    Kim lai tưởng dĩ thức hành chỉ
    Hoàn trung bằng ngạc báo bách xuyên
    44. Giải giáp vô (d) vi bất trạo (1) vĩ.


    (a) Phụng châu điểm.

    (b) Phụng châu phê: “Thấu hối”.

    (c) Phụng châu phê: “Chí khí”.

    (d) Phụng châu phê: “Khủng (khúng) hối”.

    (1) [điệu].

    NGUYỄN TÔN NHAN
    phiên âm và dịch nghĩa

    65

    KÍNH HỌA THƠ NHÀ VUA LÀM:
    “ĂN [THỊT] CÁ SẤU”

    1. Chỉ có ngươi, cá sấu! Chừ! Cớ sao lại ngươi?
    Nhìn vật khiến người nhớ lại, [việc] cũ khơi dậy
    Không có [sự hiện hữu] cá sấu, đâu làm cá sấu buồn
    Có [sự hiện hữu] cá sấu, có thể không là nguyên nhân [giúp] cá sấu vui
    5. Đất giữa [cõi trời nước] Nam sản nở, vốn trước đây [sản vật] phong phú
    Cá sấu sinh ra, [cũng] giữa chốn ấy, y như [các giống] vật mà thôi
    Đức lớn (: đạo lí tốt thịnh) trải khắp, đồng đều [của
    Đất nước], làm cảm động, ví như [đức lớn của] Trời
    Trứng [được] dưỡng nuôi, từng trải qua bao nhiêu năm, [bao nhiêu] kỉ (1)?
    Sự rộng lòng của rùa, rồng đất, chẳng xấu hổ [gì]
    cho đời sống [ngươi] vốn có chăng?
    10. Há loài rắn lớn cung cấp cho cương giới [đất nước ta] loài heo sao?! (*a)
    Tuy chẳng (a) giảo hoạt, múa may, bởi vực sâu bức bách [ngươi trong phạm vi]
    [Ngươi vẫn bị] các loài tộc khác khiến sai, ép buộc [: chia ghép] sống ở nơi này
    Tính khí ngang tàng [chốn] sông nước [của ngươi] thiếu sự tuân phục loài người
    Miếu điện (2) quay về [tế ở] núi gò, chịu dâng [ngươi làm vật] tế lễ, thết rượu khách
    15. [Hằng] năm sung cống [ngươi], tuy [ngươi] không [hẳn] là món ngon
    Sách chép [các] sản vật, [các] việc làm thích ứng với đất nước [về địa lí], không thể thiếu [tên ngươi] (hoặc: tìm tòi ghi chép các sản vật hợp thủy thổ [cũng có ngươi] là điều không thể bỏ)
    Ba mươi năm qua, [ít ra là] (b) hai mươi năm
    Truy tìm kí ức, xưa nay giặc giã chẳng
    [có bọn nào] tương tự...
    Phong tước cho cá voi (3), kết lưới, [nhằm] cắt mối lo [của] nhà vua
    20. Ba tháng mùa hè, cửa biển mới [được]
    qua lại xem xét
    Chiếc thuyền rồng (4) nhỏ bay vút, bay liệng giữa đám hàu (: nghêu) [và] cò (*b)
    Lối cấm của tiên tạm dừng [ở] đền Thai Dương (5)
    Ba ba, cá, tôm, sò tranh hiến lễ vật trước
    Hoàng đế xét trông (: chép việc hỏng để răn), [lòng] quẩn quanh (: bồi hồi), bảo rằng không có ngươi!
    25. Không phải [ngươi] ẩn lặn [ở] bến trâu [quấy đục], chờ nước trong [của] sông
    Toan kiêm [cả] Long môn (6) giống như cá chép [đã] nhảy qua (6)
    Há theo [bọn] ngoại dương cỡi thân [ngươi] đến sao!
    [Nhà vua] sửa trị tất cả sóng gió vạn ngàn dặm (7)
    Ngược sông đi lên không tuỳ thuộc [bọn] Tây trên [lưng] cá [, cá ấy là ngươi]
    30. Triều đình, tôn thất (hoặc: chầu về ngôi cao,) chỉ cầu,
    chỉ hướng về [dòng] nước chảy [phía] Đông
    Mỗi khi lo nghĩ [về] Đất Nước, khôn xiết tình!
    Cho nên vén tay áo cất người khác lên, [để] có thể đánh (c) gục đầu [những] cái thùng đậy kín (8)
    Gian lao may được thấy nhà vua
    Thong thả [vẫn] bận lòng (: thương lo) [đất này] giữa khoảng sống gần kề với chết ấy
    35. Tiến dâng lễ vật lên tổ tiên [mà lại] ít an ủi
    lòng cửu trùng (9)
    [Người trên ban đến mức] thừa thãi ân huệ, [một cách] nhún nhường, [cho] gần trăm khanh sĩ
    [Nhà vua] vén tay cất vật lên (hay: mượn hình tượng cá sấu), [khiến] bài văn của Trời (10) cảm khái
    (: niềm cảm xúc có động lòng thương) sâu sắc
    [Vua] giục ăn, ơn vua nhiều, [vua lại] chậm rãi
    [ban] vị ngọt
    Tài “hòa canh” (: tài nấu canh vừa miệng) (11), lâu nay [kẻ bề tôi] tự thẹn là không tài
    40. Cá vàng, chỉ một ước nguyện mò tay [xuống sông biển] bắt được cái đẹp [đó]
    Nhớ cá sấu, năm gánh vác công việc [ấy], [thần] xử đoán bọn giặc (12) chịu tội [là sấu]
    Nay hồi tưởng [việc] đã qua, nhận thức ra [nên] dùng [hay nên] ngừng
    Trong cõi lớn rộng, cậy vào cá sấu [để giúp chúng] báo đáp trăm dòng sông
    44. [Rồi sẽ] cởi bỏ áo giáp (d), [bọn phỉ là sấu] không làm gì (theo kiểu “vô vi”) (13),
    [chúng] không quay ngoắt đuôi (làm phản) (14).

    (1) Kỉ: 12 năm hoặc 100 năm (“thập” kỉ, thế kỉ).

    (2) Miếu điện: nơi thờ vua, nơi vua ở, tức là Triều đình.

    (3) Người Việt mình có lệ phong thần và thờ cá voi, ở các vùng ven bờ biển. Xem chú thích (5).

    (4) Thuyền vua.

    (5) Thai Dương là tên xã, thuộc huyện Hương Trà (địa giới thời Tự Đức), Thừa Thiên. Ở đó có Miếu Nam hải Long vương (ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 72 - 73). Xem chú thích (3), bên trên.

    (6) Cá chép vượt Vũ môn sẽ thành rồng (theo điển tích cổ): thi đỗ, đạt danh cao, tước lớn (TĐTNTN., sđd., tr. 383).

    (7) Dặm: đơn vị đo độ dài đường sá.

    (8) Những thùng đựng súng đạn, muối ăn và hàng cấm nói chung, hoặc xe, tàu của Pháp.

    (9) Cửu trùng: chín tầng, chín cửa, chín bệ; chỉ hoàng đế.

    (10) Chỉ thiên tử, tức nhà vua (trong khuôn khổ ý hệ nho giáo đương thời của tác giả).

    (11) Chơi chữ; nghĩa thực (nấu canh vừa miệng), và nghĩa bóng (điều hòa, điều động trong chính trị, kinh tế, văn hóa nội bộ xã hội; an ninh trật tự, chống ngoại xâm trong quân sự...), nhằm bày tỏ sự khiêm tốn. Xem: chú thích (17) bản dịch nghĩa bài số 56; chú thích (4) bản dịch nghĩa bài số 7; và chú thích (3) bản dịch thơ bài số 6.

    (12) “Thẩm phục nhung”, có thể dịch: xử đoán quân giặc mai phục; xét cho theo quân.

    (13) “Vô vi bất nhi bất vi”: “Vô vi” không phải không làm gì cả, mà thực ra là làm tất cả, ví như khoảng trống không của cái hộp để đựng đồ đạc, có khi, thường là, quan trọng hơn gỗ để làm cái hộp ấy: công dụng của cái “vô”. Xem chú thích (4), bản dịch nghĩa, bài thơ số 34. Tạm hiểu: cho những kẻ trót theo giặc Pháp, nhưng đã biết phục thiện, lập công chuộc tội, được làm các công việc không có thực quyền, hoặc được phép điều trần như Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871)...

    (14) Chính hai chữ cuối: “trạo vĩ”, với hình ảnh cái đuôi cá sấu quay ngoắt – toan làm phản (nghĩa bóng, TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 477), đã làm sáng tỏ hình tượng “ngạc ngư”: ngụy tặc... Nhưng trước hai chữ “trạo vĩ” ấy, đã có chữ “bất” (không), “vô vi”, “giải giáp”, “báo bách xuyên” và đặc biệt là “bằng ngạc” (căn cứ vào [việc đền đáp trăm sông của] sấu; cậy sấu – một cách nói nhã ngữ – [để giúp sấu chuộc tội bằng cách lập công]). Rõ ràng đây là một bài thơ mượn hình tượng vật để nói về bọn ngụy, tả đạo ở Bắc Kì trước đó đã theo giặc Pháp, vào năm 1873, khi Françis Garnier và giám mục Puginier tuyển mộ. Trong số ấy, có những tên đã được giặc Pháp cất nhắc lên làm tổng đốc, án sát như tên thợ rèn tổng đốc Trương chẳng hạn!

    Trước tình hình đó, đành phải mềm dẻo với bọn này, ở cấp thấp. Và chính vua Tự Đức cũng hiểu rằng, Nguyễn Văn Tường đã “xin hãy để lại, đợi để sai phái, cho yên lòng phản trắc” của bọn chúng (ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 83). Quả thật, bọn chúng “bèn đến xin thú, hết sức làm việc” (sđd., tr. 84). Đến lúc tình hình ở Bắc Kì trở lại ổn định, Trần Đình Túc, Cơ mật viện dâng tập tâu, làm phiếu nghĩ định cho bọn ngụy, tả đạo ấy (có tên là hào phú, lắm đồ đệ; có tên đã đỗ tú tài) được “chiểu hàm thất phẩm cấp lương, theo quân tỉnh, phái đi đánh giặc” (tập 33, sđd., tr. 84). Nhưng vua Tự Đức lại đổi ý kiến, không đồng ý, và lệnh cho Nguyễn Uy “sai phái, đợi có công trạng thực, do Nguyễn Uy xét tâu lục dụng, mới cho. Nguyễn Uy cũng phải khéo kiềm chế vỗ về, xét có tình tiết phản nghịch thì trừ bỏ trước khi việc xảy ra, có lẽ mới là ổn thỏa cả”; Trần Đình Túc và Nguyễn Uy tuân lệnh (ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 85; xem thêm sđd., tr. 9 - 10; tập 32, sđd., tr. 363).

    Đấy là cơ sở hiện thực lịch sử của bài thơ này, 12.1873 - 8.1874, trong đó có nguyên tắc và nghệ thuật dùng người.

    (a) “Kính [nhận] nét điểm bút son [của nhà vua]”.

    (b) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua Tự Đức]: “Quá tối [nghĩa]””.

    (c) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua Tự Đức]: “Chí khí (rất khí khái)””.

    (d) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua Tự Đức]: “Tối [nghĩa] kinh khủng”, “sợ [rằng] tối [nghĩa]”” (*c).
    65

    “ĂN THỊT CÁ SẤU”

    Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

    1. Chỉ ngươi, sấu! Hề! Sao lại ngươi?
    Nhìn vật, xui người kí ức khơi
    Không sấu, vốn đâu làm buồn sấu
    Nào vì hiện hữu sấu vui tươi!
    5. Trong cõi nước Nam, sản vật lắm
    Sấu sinh, thế đó, một loài thôi
    Đức Tổ Quốc trải – động lòng Trời
    Trứng nuôi từng qua mấy niên kỉ?
    Tâm rùa, rồng giúp... xấu chi nhỉ?
    10. Rắn lớn há đẻ heo xứ này?
    Tuy chẳng (a) múa may, vực bó hẹp
    Loài khác buộc ngươi sống nơi đây
    Sông hồ ngang tàng thiếu phục phép
    Triều đình tế đàn, lễ là ngươi
    15. Thường năm sung cống
    (chưa ngon nhất!)
    Chép vật, tục đất, thiếu sao thôi!
    Ba chục năm qua, hai (b) chục năm...
    Truy nhớ, giặc xưa đâu tương tự!
    Ngăn kình, kết lưới, cắt lo thầm
    20. Mùa hè, cửa biển, tuần xét đủ
    Thuyền giữa trai cò: rồng bay vươn (*d)
    Lối tiên tạm dừng đền Thai Dương
    Ba ba, cá, tôm tranh hiến trước
    Xét răn: vắng ngươi! Vua bảo buồn
    25. Không lặn bến trâu, chờ sông trong
    Cùng kiêm cửa rồng, như chép nhảy
    Ngươi theo, bọn ngoại cỡi thân sao!
    Vua trị cả sóng vạn dặm ấy
    Ngược nguồn không tùy Tây trên ngươi
    30. Triều, tôn một hướng nước Đông chảy
    Khi nghĩ đất nước, khôn xiết tình!
    Mượn người cố đánh (c) gục “thùng” đậy
    Gian lao may được thấy nhà vua
    Đất này, ngẫm thương giữa chết sống
    35. Dâng lễ, thiếu yên lòng cửu trùng
    Thừa ơn, cúi tặng trăm lương đống
    Mượn vật, văn trời cảm khái sâu
    Giục ăn, vua ban, lại ngọt thết
    “Hòa canh” vốn thẹn, tài nào đâu
    40. Cá vàng, chỉ ước vớt cái đẹp!
    Nhớ sấu... Năm xưa, xét sấu hàng
    Tưởng lại, hiểu dùng hay ngừng hẳn
    Trong cõi, giúp sấu đáp trăm sông
    44. Cởi giáp, vô (d) vi, hết ngoắt phản.


    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ

    (a), (b), (c), (d) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.


    Cước chú của bài thơ số 65, thuộc phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):
    (*a) Trường xà phong thỉ: [nghĩa đen là] rắn dài heo to.

    (*b) Cáp, lộ: Cáp Châu (Hạp Châu) và Lộ Châu, hai điạ danh, cũng là hai đồn phòng thủ mặt biển ở cửa biển Thuận An (Huế).

    (*c) Xin lưu ý: “Thấu hối” còn có nghĩa là “thấu suốt [sự] tăm tối”; “khủng hối” còn được hiểu là “kinh khủng (sợ hãi)! tăm tối!”. Chúng tôi nhận thấy những dòng thơ của Nguyễn Văn Tường được châu phê này không có gì khó hiểu (tối nghĩa) cả. Hẳn là vua Tự Đức lo sợ sự phản trắc (“trạo vĩ”) của các quan ở những tỉnh thành quan yếu, như tên thợ rèn tổng đốc Trương, Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Thân? Căn cứ vào nội dung, vào vị trí số 65 của bài thơ, chúng tôi đoán năm sáng tác hẳn là trước 1877 hoặc 1878. “Ba mươi năm đã qua”, ứng vào giai đoạn 1847 - 1877. 1847 là năm hai chiến hạm Pháp, Victorieuse và Gloire, pháo kích vào Đà Nẵng. Pháp thực sự tấn công xâm lược nước ta năm 1858, ứng với “hai mươi năm...”. (Xem NĐNĐDVPVTH., sđd., tr. 98 - 99, tr. 69 - 71). Hoặc có thể Tự Đức dùng chữ “khủng” với âm “khúng” (lo sợ ý ở ngoài lời sẽ xảy ra), [HVTĐ., sđd., tr. 202].

    (*d) Cáp, Lộ, thuyền len: rồng bay vươn.



    Bài 66

    HẠ TRẦN TRỌNG CUNG
    THẤT THẬP THỌ


    Thủy hữu Tam Hà động (đỗng) hữu
    “chiềng” (1)
    Địa Linh chung phúc phỉ kim nhiên
    Đới cừu (cầu) tọa trấn ưu vi lão
    Bàn thác phân đầu động tắc viên
    Hổ bái phi đan phùng khánh điển
    Long biên lưu tuyết tá kì niên
    Gian nan hồi ức tương tùy nhật
    Bán tại giang hồ bán nhật biên.


    NGUYỄN TÔN NHAN
    phiên âm và dịch nghĩa

    (1) Xin xem chú thích (3), bản dịch nghĩa bài này.

    66

    MỪNG TRẦN TRỌNG CUNG (1)
    THỌ BẢY MƯƠI [TUỔI]

    Nước [nguồn quê hương] có Tam Hà (2), bản, xóm (của người đồng bào thiểu số) có chiềng (3)
    Địa Linh (4) (sự thiêng liêng của đất) un đúc nên phước
    lành, đâu phải [khi không] ngày nay [mới được] vậy
    Đai áo, áo cừu (5), ngồi gìn giữ (nơi trấn nhậm cho dân); [việc] tốt đẹp nhờ cứng bền
    Cái bàn, viên đá mài (6), rối bời [mà] hợp [nhau] (trong
    công việc của nước); [sự] hoạt động tất nhiên trọn vẹn
    Hổ (7) trao chức, khoác [áo] điều, gặp điển lễ lớn
    Rồng ghi chép (8), lưu lại tuyết [trắng], vay [lại] tuổi sáu mươi (9)
    Gian khó, nhớ lại ngày theo [cạnh] nhau [để làm
    việc nước]
    [Cảm thấy tâm hồn] một nửa ở nơi ao hồ sông nước, một nửa ở cạnh mặt trời.

    (1) Trần Đình Túc (1808 - 1892), ĐNLT., sđd., tập 4, tr. 235 - 238.

    (2) Sông Hiền Lương; đoạn cuối sông Thạch Hãn; và sông Hiếu (Do Linh, Quảng Trị; xem bản đồ). Tam Hà còn là điạ danh ở Quảng Trị thời Nguyễn bấy giờ (tên huyện lị) [xem ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 174).

    (3) Tác giả phiên âm chữ “chiềng” (một từ tiếng Việt cổ)? “Chiềng”, theo nghĩa từ điển, là từ để gọi người bậc trên; là bản, mường lớn; hoặc là trung tâm của một khu vực. Ở đây, theo nghĩa thứ ba, trung tâm của các bản, làng nhân tộc thiểu số thuộc huyện Địa Linh (nay là Do Linh), Quảng Trị. [Xem ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 101; Pierre Pigneaux de Béhaine, Tự vị Annam – Latinh (1772 – 1773), sđd., tr. 77; và Viện Ngôn ngữ, Từ điển tiếng Việt, sđd., tr. 152 - 153 và tr. 334]. Về chữ “chiềng”, tác giả đã có một lần sử dụng ở bài “Cùng thống đốc Hoàng lên đài cột cờ, cảm xúc” (bài 30 trong sách này).

    (4) Địa Linh, xem chú thích (3) ở trên.

    (5) Đai áo, áo da (cừu): biểu trưng cho lúc còn làm quan với sắc phục quy định; đây chỉ là chi tiết hoán dụ. Xin xem thêm chú thích (8) của bản dịch nghĩa bài thơ số 11.

    (6) Cái bàn, viên đá mài: chi tiết biểu trưng cho thời cầm gươm tiễu phỉ, đánh thực dân Pháp (bàn mưu tính kế ở cái bàn, mài gươm ở đá mài). HVTĐ., sđd., tr. 707, định nghĩa chữ “thác”: Kinh Thi có câu: “tha sơn chi thạch, khả dĩ vi thác” (đá ở núi khác, có thể lấy làm đá mài). Ý nói: bè bạn hay khuyên ngăn để cứu lỗi lầm cho mình. Xin xem thêm chú thích (8) của bản dịch nghĩa bài thơ số 11.

    (7) Hổ, chỉ tướng cầm quân.

    (8) Rồng, chỉ vua. Vua Tự Đức thường làm thơ, trong đó có nhiều bài kí sự bằng thơ. Long Biên cũng là địa danh.

    (9) Già rồi, Trần Đình Túc vẫn phải nhận chức của Triều đình, như ở những năm 1873, 1874. Ở đây tác giả nhắc đến thời 1874 (với địa danh Long Biên, Hà Nội). Nguyễn Văn Tường viết bài thơ này, chắc chắn là vào cuối năm 1877 hoặc trong năm 1878, dịp mừng thọ bảy mươi tuổi của Trần Đình Túc. Năm 1874, Trần Đình Túc đang ở tuổi sáu mươi, chính xác là 66 tuổi.

    66

    MỪNG TRẦN ĐÌNH TÚC
    THỌ BẢY MƯƠI TUỔI

    Nước chảy Tam Hà, bản có chiềng
    Đất linh đúc phúc, nên phần riêng
    Áo, đai, ngồi giữ, bền nhờ vững
    Bàn, đá, hợp tranh, động hẳn yên
    Hổ tặng, khoác điều, gặp lễ lớn
    Rồng ghi, lưu tuyết, mượn thời quyền!
    Gian nan, nhớ thuở theo nhau bước
    Nửa tại sông hồ, nửa ánh thiên.


    TRẦN XUÂN AN
    chuyển lại thơ



    Hết phần 2

    Xin xem tiếp phần 3