Chủ Nhật, tháng 11 05, 2006

11. NGUYEN VAN TUONG (1824 - 1886) -- THO -- VAI NET VE CON NGUOI, TAM HON & TU TUONG / Tệp 11

Bài 54

TẠI GIA ĐỊNH ĐẮC BÁO THAM BIỆN
NGUYỄN CHI TỬ THU TIỆP


Khách trung xa mã yếm phi trần
Hồi ức thu vi tập tấn thân
Phan quế thử lang nghi đắc thủ
Thừa sà ngô bối vị tri tân
Gia nghiêm trách trọng thần vi phụ
Quốc khánh thù nan tử hữu quân
Vân thủy hà thời quy cựu phố
Nhất môn vũ trạch cánh thiêm tân.


TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm

54

Ở GIA ĐỊNH ĐƯỢC TIN CON TRAI
THAM BIỆN NGUYỄN TĂNG DOÃN
THI HƯƠNG ĐỖ

Quê xa người ngựa, chán phong trần
Nhớ buổi thi hương tập tấn thân
Vin quế chàng này càng rõ vững
Cỡi bè đây lão chẳng hay gần
Tôi, quan, làm bố, nghiêm bồ chữ
Vua, nước, tuyển con, nặng gánh ân
Mây sóng khi nào về bến cũ
Hai ơn một cửa lại tươi ngần.


TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ

54

TẠI GIA ĐỊNH (1), ĐƯỢC BÁO TIN CON
TRAI THAM BIỆN [HỌ] NGUYỄN (2) THI ĐỖ
KỲ THI MÙA THU (3)

Khách ở trong [chốn] xe, ngựa, chán ngán bụi bay
Nhớ lại khuôn viên [trường thi hương] mùa thu, tập tành làm người quan chức (thượng lưu) (4)
Vin cây quế (5) chàng trai này xứng đáng [là] tay nắm được
Cỡi bè (6) bọn ta chưa hề biết bến bờ!
[Vẻ] nghiêm túc [của] gia đình, [sự] nặng nề
[bởi] trách nhiệm, người bề tôi làm cha [là phải nhận thức và xây dựng nền nếp ấy]
[Người được hưởng] phúc mừng (phần thưởng) [của]
nước, [việc] khó khăn [trong] sự đền đáp, [nhưng nay] con[đã] có vua [để phụng sự]
Mây nước khi nào quay về bến cũ
Một gia đình [được ơn] mưa [móc], thấm nhuần ruộng đất, càng thêm tươi mới.

(1) Gia Định, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

(2) Nguyễn Tăng Doãn (ĐNTL.CB., tập 33, tr. 42, 78...).

(3) Thi hương, thường tổ chức vào mùa thu.

(4) Tấn thân: người cầm hốt mà xõa tay áo đỏ (chỉ quan viên, thượng lưu). Học giỏi, làm quan, như thế cũng là bước vào giai tầng trên của xã hội (theo quan niệm phong kiến Việt Nam, không phân biệt thành phần xuất thân). Đó là con đường tấn thân (tiến thân) của kẻ sĩ.

(5) Vin quế (“phan quế”): thi đỗ (nghĩa bóng).

(6) Cỡi bè, nghĩa bóng: vượt qua bể học (không có bến bờ). Nghĩa này phù hợp với văn cảnh hơn là “cỡi bè” vượt qua “bể hoạn” (bể hoạn: con đường làm quan sóng gió như đi trên biển).

54

TẠI GIA ĐỊNH, ĐƯỢC TIN BÁO CON
TRAI THAM BIỆN NGUYỄN TĂNG
DOÃN THI ĐỖ KÌ THI MÙA THU

Xa quê, chán bụi, ngựa người đua
Nhớ thuở thi hương tiến bước xưa
Vin quế, chàng này càng xứng nắm (1)
Cỡi bè, đây bọn chửa hay bờ! (2)
Nếp nghiêm, nho gánh, thần làm bố
Đàn phúc, sĩ xây, con có vua
Mây nước khi nào về bến cũ
Một nhà nết đất sáng ơn mưa.


(bản biên soạn)

(1) Chữ “nắm” (cái nắm tay) là một danh từ, để đối với danh từ “bờ”.

(2) Chưa bao giờ thỏa mãn trong việc học tập, cứ học hoài học mãi, dù đã đỗ đạt, ra làm quan.


Bài 55

ẤT HỢI NGUYÊN CHÍNH


1. Huyền minh công thành hậu (*)
Giáp tuất thứ kiû trừ
Bộc trúc liên tiêu hưởng
Điều phong lai từ từ
5. Ngũ canh đãi lậu hạ
Đông minh lũ vấn cừ
Chung thanh tài báo hiểu
Loan thanh chí chỉ thư
Cửu trùng lí thủ tộ
10. Bách chấp giao phu như
Đình hạ tập bang khánh
Điện thượng phú Gia ngư
Trân tàng xuất thiên phủ
Thù tình phỉ báo cư
15. Khánh tứ triêm thừa hậu
Chiêm y húc nhật sơ
Tam triêu khí tải thục
Tường quang mãn đế cư
Nhất niên trưng hưu cát
20. Quần sinh giai phát thư
Hi nhiên đăng xuân đài
Hồn nhiên lâm Hoa Tư
Đán hề ca phục đán
Quỳ tâm hướng nhật sư
25. Thái Hòa thành khả lạc
Tung huống đồng thân sơ
Thánh tâm bất tự mãn
Bách vi kì bật dư
Phỉ cung nãi thần phận
30. Hoàng tuất đồ dữ cư (cứ)
Dân sinh hà dĩ toại
Quốc kế hà dĩ dư
Trù mâu thượng vị cập
Vô phụ thử cư chư
35. Phú cường phi biệt đạo
Thành pháp cụ tư như
Khuynh phủ tức phục thái
[… Tri (?) …] dã hữu nhân dư
Hạnh phùng dương chính trưởng
40. Quân tử hỉ đắc dư
Giao tu thận nguyên thuỷ
42. Thứ ki (cơ) vĩnh chung dư (dự).


VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm

55

MỒNG MỘT THÁNG GIÊNG NĂM ẤT HỢI

1. Việc luân chuyển huyền bí xong rồi
Năm Giáp tuất đã qua
Tiếng pháo nổ suốt đêm
Ngọn gió nhẹ đến chậm rãi
5. Năm canh chờ mức nước đồng hồ hạ xuống
Nhiều lần trông chừng xem đã hừng đông chưa
Tiếng chuông mới báo trời sáng
Tiếng chim loan ríu rít
Đức vua bước lên ngôi
10. Quần thần đứng chắp tay
Dưới sân rồng chúc mừng
Trên điện đọc thơ Gia ngư
Đem châu báu ra phủ vua
Đáp lại tình cảm không phải bằng ngọc cư
15. Ơn vua thấm đầy
Ngắm nhìn mặt trời mới mọc
Ba buổi sáng không khí dịu mát
Ánh tường quang tỏa khắp cung vua
Hiện ra điềm tốt lành trong một năm
20. Vạn vật đều phát triển tốt tươi
Hớn hở lên đài xuân
Hòa mình vào hàng quan lại
Sáng sớm hề, ta hát đến sáng sớm mai
Lòng hoa quỳ tươi vui theo bóng mặt trời
25. Thái Hòa xong thật là vui
Chúc thọ khắp người thân cũng như sơ
Lòng đức vua không tự mãn
Mọi người hết lòng giúp đỡ
Dẹp phỉ là phận sự bề tôi
30. Nhanh chóng cấp tiền cho người ốm đau tàn tật
Đời sống của dân làm sao được toại ý
Tiền của của nước làm sao được dư dả
Còn chưa đến nỗi chật vật
Chớ phụ những gì hiện đang có
35. Giàu mạnh không phải là con đường khác
Phương cách thành công có đủ trong mưu kế chặt chẽ
Bỉ hết rồi thì thái trở lại
Bởi [… biết (?) …] có người ư!
May gặp lúc dương đang thịnh
40. Người quân tử vui vì được xe tới đón
Giao thiệp nên thận trọng buổi đầu
42. Dân chúng khen ngợi mãi mãi.

VŨ ĐỨC SAO BIỂN
dịch nghĩa

55

ĐẦU NĂM ẤT HỢI (1)

1. Công việc [chuyển từ] bóng tối [ra] ánh sáng (từ huyền nhiệm thành minh bạch) [đã] thành [một cách] trọn vẹn
Giáp tuất, năm thứ hai (phục vụ tại Triều đình) [sắp] trừ tịch (2)
Pháo trúc suốt đêm âm vang
Gió dịu mát đến chầm chậm
5. Năm canh (3) chờ giọt [đồng hồ] hạ thấp [mực nước trong bình] (4)
Ánh sáng phương đông – nhiều lần hỏi ai (đã hừng đông chưa?)
Tiếng chuông vừa báo sáng
Giọng chim loan vang ca, lắng ngừng, thư thả
Chín tầng (5) làm việc [: ban] vận may đầu [năm]
10. Trăm người đồng chí hướng vái người đi qua
[để lên ngai]
Dưới sân [rồng] quần thần (các đại thần) chúc mừng [năm mới]
Trên điện [vàng], [vua đọc] bài phú “Gia ngư” (6)
Kho châu báu [:lời văn của vua] mở ra [ở] nhà trời (7)
Đáp tình [vua], không [dám] tạ lời [như thể dâng] ngọc cư (8)
15. Ơn huệ người trên ban thấm đẫm, nối liền, [sâu] nặng
Thấy y như ánh sáng ban mai [lúc] mặt trời bắt đầu [mọc]
Ba sớm mai chuyển tải không khí dịu mát
Ánh sáng tốt lành tràn đầy nơi vua ở
Một năm hiện ra [điềm] tốt đẹp
20. Các sinh vật đều phấn phát nhẹ nhàng
Vui thay [vua] lên đài xuân!
Hồn nhiên bước vào [nước] Hoa Tư (9)
Sớm mai, chừ, ca hát [mừng] sớm mai trở về
Lòng hoa dã quỳ hướng về mặt trời [đang] thỏa dạ
25. [Việc trang trọng ở điện] Thái Hòa [đã] xong,
có thể vui vẻ
Lời chúc ở núi Trung Nhạc (chúc vua) (10), lời tạ của người thân cũng giống kẻ sơ
Tâm thánh thiện không tự mãn
Bách tính (thần dân) cùng trông mong giúp đỡ, cống hiến
Sự vâng chịu của giặc, [đấy] mới là nhiệm vụ (phận sự) [của] kẻ bề tôi
30. Tiền trợ giúp [cho] người già con trẻ, kẻ tay làm hàm nhai [được] cấp cho [chút] thịt thà
Đời sống nhân dân sao cho toại nguyện
Kế sách đất nước sao cho dư dả
Trù liệu [cả những] sai lầm [, những gì vì vậy nên] còn chưa đạt [được]
Đừng phụ những gì [đang] ở [cùng] (những gì đang có: nhật nguyệt – ngày tháng) này
35. Giàu mạnh không phải là con đường khác biệt
Phương cách đạt được thành công [được] hoàn bị (chuẩn bị chu đáo) [về] sự chặt chẽ (như rễ cây đan liền) [các] ý tưởng, sách lược
Nghiêng xuống mức kém (11), tức là cái tốt
[sẽ] quay về
Bởi biết [đến] người [hiền tài] (12) ư!
May mắn [là] gặp [khí] dương cho sự phát triển chính [đạo] (vươn thẳng)
40. Người quân tử vui mừng có xe vua [đón]
Giao thiệp cần thận trọng như buổi đầu [không bao giờ để sự thân mật dẫn đến suồng sã] (13)
42. Ngõ hầu tiếng tốt trọn vẹn mãi mãi!

(1) 1875, Ất hợi, Tự Đức năm thứ 28.

(2) Trừ tịch: Đêm [năm cũ] ra đi: đêm cuối năm.

(3) Canh: đơn vị thời gian ban đêm (“đêm năm canh...”).

(4) Đồng hồ nước kiểu cổ.

(5) Cửu trùng: chín tầng (trời, bệ ngai vàng): vua

(6) Gia ngư: con cá đẹp tốt (tên một bài phú của vua Tự Đức), [Xem mục từ Ơn sóng, TĐTNTN., sđd., tr. 477].

(7) Thiên phủ: nhà Trời (theo quan niệm phong kiến: đồng nhất vua với Trời).

(8) Ngọc cư: một loại ngọc quý để đeo.

(9) Hoa Tư: tên một quốc gia mộng tưởng, không có thật, thể hiện ước vọng không còn giai cấp và sự cách bức nào cả (vua cũng như kẻ bề tôi). Đây là đoạn thơ vượt khỏi luật gieo vần (xem bản nguyên tác chữ Hán) như một niềm reo vui, hân hoan tột cùng, ngỡ là khát vọng “nhà nước mộng tưởng” đang hiển hiện, có thật. [Xem mục từ Hoa Tư, TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 366].

(10) Tung: núi Trung Nhạc (Tung Sơn) bên Tàu. Vua Hán Võ Đế đi chơi núi Tung Sơn, bỗng nghe có tiếng chúc tụng vua ba lần. Người ta cho đó là tiếng của thần núi. Nghĩa thông thường: tiếng chúc vua. (TĐTNTN., sđd., tr. 625). Tung hô: chúc vua.

(11) “Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cữu…”. Đại ý: cái gì quá cực đoan sẽ dẫn đến sự biến dịch, biến dịch tất phải khai thông, khai thông tất phải như cũ (trạng thái bình quân âm – dương). Lão Tử đã viết rõ về luật “phản phục”: “Vật cùng tắc biến”; “vật cùng tắc phản” (sự vật đi đến chỗ cực đoan sẽ quay ngược lại); “Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản” (Lớn là tràn khắp, tràn khắp thì đi xa, đi xa là trở về); hiểu một cách khái quát, cũng như trên đã nói: sự vật khi đi đến cực độ thì phải biến, mà biến, thì lại biến trở về cái đích của nó (xem: LTTH, sđd., tr. 44, 124). Ở đây, thể hiện rõ quan điểm biện chứng nho gia với tâm thức tam giáo đồng quy.

(12) Nguyên bản chép sót một chữ. Có lẽ là chữ “hiền” hoặc đúng hơn, là chữ “tri”: “Dã hữu hiền nhân dư!” (?); “Tri dã hữu nhân dư”. Tạm điền chữ “tri” (tri ngộ) – diễn đạt thuật dùng người của bậc minh quân –, căn cứ vào văn cảnh.

(13) Quan niệm ứng xử, giao tế của nhà nho Việt Nam (ngay cả trong quan hệ vợ chồng).

55

ĐẦU NĂM ẤT HỢI (1875)

1. Xong việc huyền minh chuyển
Năm Giáp tuất đã qua
Suốt đêm vang pháo trúc
Chậm rãi gió hiền hòa
5. Năm canh chờ đêm cạn
Xem chừng hừng đông xa
Tiếng chuông vừa báo sáng
Chim loan ríu rít ca
Chín tầng nắm vận nước
10. Chung lòng vái người qua
Dưới sân rồng, mừng chúc
“Gia ngư”, văn Thái Hòa
Trời ban lời châu báu
Đáp tình, đâu ngọc ngà!
15. Ơn vua dày sâu thấm
Mặt trời rạng, ngắm xa
Ba sớm mai dịu mát
Ánh lành khắp cung hoa
Điềm năm đẹp hiện ra
20. Muôn vật đều tươi tốt
Hớn hở lên đài xuân
Hồn nhiên hòa vào quan (1)
Sáng chừ, ca sáng sớm
Dã quỳ, mặt trời gần!
25. Vui lắm thay, Thái Hòa!
Thân sơ nồng tạ chúc
Không tự mãn, lòng đức! (2)
Tận giúp, quan dân ta!
Phận bề tôi dẹp giặc
30. Mau chăm người bệnh tật
Dân toại ý mọi nhà
Sao dư thừa tiền nước
Chật vật chưa sao mà!
Đừng phụ gì đang có
35. Mạnh giàu, đâu đường lạ!
Thành công, vững mưu xa
Suýt nghiêng là đứng đó
Nhờ biết dùng người a?
May gặp khi dương thịnh
40. Xe vua đón, sĩ ca
Từ đầu, quen cân nhắc
42. Dân khen mấy sau xa?


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(1) Hồn nhiên hòa vào quan, câu này chỉ tạm dịch theo ý. Thật ra, “Hồn nhiên lâm Hoa Tư”: hồn nhiên vào đất nước đại đồng mộng tưởng, không còn cách bức vua – tôi, cao – hạ nào cả.

Dịch sát nghĩa hơn:

“Vào Hoa Tư hân hoan”.

(2) Một lời khuyên, nhắc nhở vua.


Cước chú của bài thơ số 55, thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):

(*) Các bài thơ dài, chúng tôi đánh số thứ tự để tiện đối chiếu giữa các bản (nguyên tác, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, nhuận sắc), không phải phân đoạn.




Bài 56

CUNG HỌA NGỰ CHẾ BÍNH TÍ
NGUYÊN NHẬT (NHỊ THẬP VẬN)


1. Vũ phục kim âu điện
Nghiêu giai ngọc lịch tân
Dương niên phùng kỉ tiù
Đẩu bính kháp lâm dần
5. Liù thủy tam dương hảo
Triều nguyên bách tích tuân
Đào phù trừ cựu tịch (tích)
Lậu tiễn báo sơ thần
Tượng khuyết chiêm tinh nhật
10. Uyên hàng túc tấn thân
Tích linh từ tấn chỉ
Hiến thọ đế cung thân
Giáo hiếu tiên thiên hạ
Đôn di ngưỡng nhất nhân
15. Thanh loan di thúy điện
Chu phất củng nghiêm thần
Phụ ỷ đoan nguyên vị
Hô tung biến thị thần
Lộc minh khuông phỉ huống
20. Đường đệ ngạc hoa chân (chấn)
Quỳnh tịch hương ngưng lộ
Tiêu trường ảnh tán ngân
Bửu phân đồng dị tính
Khánh chí tích kim xuân
25. Gia huệ nhân thần bá
Nùng triêm đáo xứ quân
Hóa quân khai thái tượng
Thần hàn ngụ thiên chân
Duệ toán thâm đồ trị
30. Chu hành chính vọng tân
Vi thần tàm bỉ ổi
Đại tiết phạp kinh luân
Lệ chí thường giai phủ
Hòa trung túy nhược thuần
35. Thể nguyên cơ quát chuyển
Đạt thuận nhĩ hà quân
Vũ nhuận Chu nguyên thử
Phong thanh Hán tái trần
Vạn niên ca đế đán
40. Hân duyệt phổ thần dân.


VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm

56

KÍNH HỌA BÀI THƠ NGÀY MỒNG MỘT
TẾT BÍNH TÍ CỦA NHÀ VUA,
HAI MƯƠI VẦN

1. Áo Vũ vững âu vàng
Thềm Nghiêu sang năm mới
Năm dương lại gặp chi Tí
Bính vừa đúng lúc vào Dần
5. Bước đầu gặp được cái tốt tam dương
Răm rắp triều nguyên
Bùa đào tiễn năm cũ
Thẻ đồng hồ báo trời sáng
Đứng ở cửa khuyết quan sát sao và mặt trời
10. Bá quan đứng thành hàng đai hốt nghiêm trang
Trời ban thêm tuổi, thái hậu thêm phúc đức
Vua cung kính mừng tuổi mẹ
Dạy đạo hiếu làm đầu trong thiên hạ
Ngưỡng mộ một người là ông Đôn Di
15. Chim loan xanh dời đến thúy điện
Những dây thao đeo ấn màu đỏ hướng về cung vua
Quay lưng về phía tấm bình phong đứng nghiêm trang
Các thị thần ai nấy đều tung hô
Ngoài triều vua tôi vui vẻ
20. Trong nhà anh em đầm ấm
Tiệc quỳnh hương đọng thành sương
Trong chén rượu ánh sáng lóng lánh như bạc tan
Châu báu đem chia họ hàng nội ngoại
Ghi nhớ niềm vui mùa xuân xưa nay
25. Ơn huệ ban phát ra khắp cả
Mọi nơi thấm đẫm như nhau
Tạo hóa mở thái tượng
Bút vua ngụ lòng trời
Tính toán sâu xa là mong đất nước thạnh trị
30. Hành động chu đáo phải trông chờ khách có tài
Kẻ bề tôi nhỏ nhoi này thẹn vì xấu xa
Tiết lớn thiếu mất tài kinh luân
Trong phế phủ thường xuyên nung chí
Say sưa trong lòng như dậy men
35. Cơ trời sẽ chuyển dịch
Đến hồi thuận rồi gần xa như nhau
Mưa nhuần trên cánh đồng nhà Chu
Gió thổi sạch bụi trên cửa ải nhà Hán
Vạn năm ngợi ca buổi sáng của nhà vua
40. Niềm vui tỏa ra khắp thần dân.


VŨ ĐỨC SAO BIỂN
dịch nghĩa

56

KÍNH HỌA BÀI THƠ
“NGÀY MỒNG MỘT TẾT BÍNH TÍ (1)”
CỦA NHÀ VUA, HAI MƯƠI VẦN

1. Áo Vũ (2) vững âu vàng (3)
Thềm Nghiêu (4) lịch ngọc (5) mới
Năm dương (6) gặp kỉ Tiù (6)
Sao đẩu Bính (6) thích hợp vào Dần (6)
5. Khởi đầu [sự vận chuyển theo] dịch lí
[lại là] ba cái dương (6) tốt
Buổi thiết triều đầu năm, trăm [việc] khai mở
[đều] tuân theo
Bùa màu đỏ [vui tiễn] sự ra đi [của] năm cũ
Mũi tên (: thẻ có vạch khấc) đồng hồ [xưa] báo
[khắc] khởi đầu [của] sớm mai
Cửa khuyết (7) với những hình tượng, [chừng như đang] ngắm sao [và] mặt trời
10. Hàng chim phượng sồ là các quan cầm hốt, xõa
tay áo đỏ [trông thật] nghiêm túc
[Trời] ban đêm tuổi, người mẹ [của vua] tiến về [phía]
phúc đức
Chúc thọ, vua cung kính [thưa với] mẹ
Dạy đạo hiếu làm đầu [cho] thiên hạ
Đôn Di (8), [vua] ngưỡng mộ một người [ấy]
15. Chim loan xanh [bay] dời [đến] điện sâu
Những dây thao màu đỏ (9) xoay quanh (chầu) nơi vua ở [trông rất] nghiêm
Tựa vào tấm bình phong đứng thẳng ở vị trí đầu
[Các] thị thần tung hô khắp cả
[Tiệc] lộc minh (10), [những] giỏ tre, thùng có nắp [vua] ban nhiều (11)
20. Cây hải đường (12), [các] đóa hoa [được quây quanh bởi] các lá xanh [quanh chân hoa] phấn phát
Tiệc đêm [với chén] quỳnh (13), hương đọng
[thành] sương
Chén [nồng vị] hồ tiêu (14), ảnh hình tan ra [như] bạc
Châu báu, chừ, người cùng họ (nội), kẻ khác họ (ngoại)
Ghi chép niềm vui, mùa xuân xưa nay
25. Ân huệ tốt đẹp theo tinh thần [ấy] ban rắc ra
Thấm nồng đến [mọi] xứ đều khắp
Tạo hóa (15) khai mở hình trạng tốt đẹp
Thành ý [của] trời ngụ [ở] bút nhà vua
[Sự] tính toán [của] hoàng đế sâu sắc [trong các] dự định [để] cai trị
30. Làm tròn [chức năng thiên tử] phải trông chờ [ở kẻ sĩ được quý trọng như] khách
Kẻ bề tôi nhỏ nhoi thẹn [vì vốn trưởng thành trong]
sự quê mùa [tại] nơi chốn gần biên ải (16)
Tiết tháo lớn thiếu tài cứu nước giúp đời
Chí nguyện gắng sức thường xuyên [mài sắc ở] khắp các phủ tạng [cứng bền như đá]
Lòng hòa mục [với thiên nhiên, đồng loại, bạn bè] (17) say như thể rượu ngọt
35. Cái lí uyên nguyên [của] bản thể [vũ trụ là] máy vận
hành phổ quát [mãi] luân chuyển (18)
Đạt tới lẽ thuận [thì] nơi xa,
chốn gần đều cân bằng (18)
Mưa tươi nhuần cánh đồng [nhà] Chu (19) [tốt] nắng
Gió [quét] sạch biên ải [nhà] Hán (19) [ngập] bụi
Vạn niên ngợi ca buổi sáng [của] nhà vua
40. [Niềm] vui đẹp lòng khắp thần dân.

(1) 1876, Bính tí, Tự Đức năm thứ 29.

(2), (4) Hai vị vua cổ đại Trung Quốc, biểu tượng lí tưởng hóa.

(3) Cái bình vàng (chắc bền), ví với Nhà nước.

(5) Lịch của vua (có nạm ngọc, hoặc “ngọc” là mỹ từ).

(6) Các khái niệm dịch lí học.

(7) Cửa khuyết (cửa quyết), chỉ cung vua. Khuyết là lầu canh ở cung vua. Cung khuyết.

(8) Đôn Di. Chưa tra cứu được điển này. Nếu theo chữ viết trong nguyên tác, có thể hiểu “đôn di” (chúng tôi không viết hoa – nbs.) là trau chuộng đạo thường (di luân, luân thường); ở đây là đạo hiếu.

Cả câu: Trau chuộng đạo thường, [vua] ngưỡng vọng một người. Với mặt chữ như thế, không phải là danh tính Chu Đôn Di, triết gia đời Tống (Trung Hoa), người xây dựng nên lí học, được tôn xưng là Chu Liêm Khê, 1017 - 1073 (TĐHV., tập thượng, sđd., tr. 176).

(9) Dây thao có đeo ấn: một trong các đồ phục sức của các đại quan theo quy định.

(10) Lộc minh: tiệc vua ban cho các tân khoa thi hương (cử nhân); đây chỉ là sự ví von (ẩn dụ). [Xem TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 517]. Thơ Lộc minh: tên một thiên trong Kinh thi, khen vua nhà Chu đãi yến tịch (tiệc) các quan (ĐNLT., tập 3, sđd., chú thích, tr. 129).

(11) Hẳn là các giỏ đựng thức ăn, các thùng đựng rượu.

(12) Đường: cây đường (loại đỏ, gỗ làm cần cung; loại trắng, quả ăn được). Ân trạch của quan địa phương lưu lại gọi là cam đường. Đệ: cây đường đệ. Kinh thi có thơ Đường đệ nói về việc anh em ăn uống vui vầy [HVTĐ., sđd., tr. 300]. Ở đây, chỉ các hoàng thân trong hoàng tộc.

(13) Tiệc quỳnh: tiệc có uống rượu với chén làm bằng ngọc quỳnh đỏ, vua chiêu đãi các tân khoa thi hội (tiến sĩ), [TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 113].

(14) Ẩn dụ (ví von, so sánh ngầm), chỉ rượu nồng.

(15) Tạo hóa, theo quan niệm cổ, như cái bàn xoay để làm đồ gốm (sành sứ). “Quân”: bàn xoay nặn vật.

(16) Xem ĐNTL.CB., sđd., tập 30, tr. 170 - 172. Quốc sử quán đã ghi chép rất cụ thể, khá chi tiết:

... “Vua [[...]: lược bớt – nbs.] bảo bộ thần rằng: [...], ở nơi biên viễn, mà không được như Nguyễn Văn Tường, thì lợi chưa thấy, mà hại đã sinh ra, hối làm sao kịp. Bèn sai Thân Văn Nhiếp và Nguyễn Văn Tường thương lượng suy xét. Văn Nhiếp xin cho Nguyễn Văn Tường và Trần Đình Túc cáng đáng việc ấy, và đặt thêm chức tuyên phủ sứ, chọn người thổ trước để sửa sang các công việc.

Nguyễn Văn Tường nói: các châu ở Thành Hóa đất liền với kinh đô, đời đời làm phên che giúp đỡ [...]. Còn về rừng sâu khí núi độc, thì có người đã ở quen, chịu đựng nổi; dân Man không biết gì, thì lấy sự dễ dãi để thân cận họ; biên viễn là việc quan hệ [...]. Trần Đình Túc chưa từng kinh lịch nơi đó [mặc dù Trần Đình Túc là người Do Linh, Quảng Trị – nbs.] nhưng địa thế, dân tình ở phủ hạt ấy rất là biết rõ. Thần sinh trưởng ở đất [Quảng Trị – nbs.] ấy, trước kia đã làm tri huyện ở [huyện Thành Hoá – nbs.] đó hơn chín (09) năm, năm ngoái lại đi khám xét [...]. Trần Đình Túc là người giỏi giang quen việc, tôi [:các bề tôi khác] không thể theo kịp được, nhưng về tục xứ ấy, tình người Man, thì Đình Túc chưa được hiểu rõ như thần. Xin cho thần đổi sung chức tuyên phủ sứ, và kiêm cả chức khuyến nông, phàm công việc nên làm ở bảo Trấn Lao, thì đốc sức cho huyện viên sửa sang; còn ruộng nương, việc trị thủy, đời sống của dân, điều lợi điều hại thì hội cùng với đạo thần [quan ở đạo Quảng Trị – nbs.]. Chức kinh doãn [phủ doãn Thừa Thiên – nbs.] có khuyết hoặc cho Trần Đình Túc kế thay, nhưng kiêm coi cả công việc doanh điền.

Vua lại hỏi Trần Đình Túc, Túc cũng cho là phải, lại tự xin trông coi việc ấy tự trước đến sau.

Vua cho là chức kinh doãn và doanh điền đều chưa có công hiệu, cũng chưa rõ được người [tức là Nguyễn Văn Tường – nbs.] có tài năng hay không, bèn sai điều giữ chức cũ. Trần Đình Túc thì kiêm biện cả nông điền thủy lợi ở Quảng Trị; còn các việc trọng đại về doanh điền của phủ đạo, nên cùng với Nguyễn Văn Tường thương lượng bàn định tâu lên, và hội đồng lựa chọn viên quản đạo, viên huyện”.


Chúng tôi (TXA., nbs.) xin chép lại đoạn trích từ "Đại Nam thực lục, chính biên" (tập 30, sđd., số trang đã ghi ở dòng giới thiệu lời dẫn mở đầu chú thích này). Qua đó, để thấy rõ một số nét rất cơ bản về gốc gác, quê quán, nơi sinh trưởng và tinh thần tự nguyện, sẵn sàng rời bỏ cương vị cao, nơi kinh thành sang trọng, tiện nghi ở Huế để dấn thân vào chốn rừng sâu nước độc là Thành Hóa (Cam Lộ, Quảng Trị) của Nguyễn Văn Tường. Trước hết, thấy rõ Kì Vĩ phụ chánh đại thần, trung thần triều Nguyễn, người mưu trí và tài ba nhất của giai đoạn đầu chống Pháp:

a. là người địa phương, từ lâu đời, tổ tiên từ ngoài kia sông Gianh vào sinh cơ lập nghiệp trước thời chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa trấn nhậm. Do đó, nguyên quán, nơi sinh trưởng là Quảng Trị (làng An Cư, huyện Đăng Xương [: Triệu Phong]).

b. trải qua hơn chín năm làm tri huyện ở Thành Hóa (theo ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 103, đến 1853 mới đặt chức tri huyện ở vùng này).

c. rất thông hiểu phong tục, tâm tình người nhân tộc thiểu số (Vân Kiều, Cà Tu, Pa-kô...) và cả người Lào xiêu tán. Như thế, Nguyễn Văn Tường chắc chắn rất giỏi tiếng nhân tộc (tiếng Thượng).

Ngoài những lượng thông tin trên, vốn làm rõ hai chữ “bỉ ổi” (thô kệch, nơi biên ải xa xôi, quê mùa), chúng tôi xin nhân đây nhấn mạnh ngoài lề vài chi tiết khác:

a’. Nguyễn Văn Tường xin từ chức phủ doãn ở Huế để chuẩn bị xây dựng chiến khu Tân Sở, khôi phục và mở thêm đường mòn từ Bình Định ra Nghệ An, từ thời điểm này [ĐNTL.CB., tập 31, tr. 86 - 87, tr. 89, tr. 103 (sáu điều tâu về Cam Lộ, lưu ý điều 2)].

b’. Nguyễn Văn Tường từ chức phủ doãn còn vì lí do khác: lúc này nhân dân đang chết đói đầy cả đường kinh thành Huế (nhất là từ Quảng Nam, dân xiêu tán ra), mà Tự Đức vẫn cho tiến hành xây Vạn Niên cát địa (ĐNTL.CB., tập 30, sđd., tr. 131, 186).

c’. Nguyễn Văn Tường được quyền cùng Trần Đình Túc chọn quan huyện, quan đạo (quan quản lí đạo Quảng Trị). Nguyễn Quýnh hẳn là người thuộc nhóm Nguyễn Văn Tường – Thân Văn Nhiếp nên được chọn làm quan quản đạo Quảng Trị (ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 86 - 87).

Đó cũng là những lượng thông tin về ông, giúp chúng ta hiểu hơn nghĩa của chữ trong văn ngữ cảnh cụ thể:

Vi thần tàm bỉ ổi
Đại tiết phạp kinh luân
Lệ chí thường giai phủ
Hòa trung túy nhược thuần
...
Vạn niên ca đế đán
Hân duyệt phổ thần dân.


Bỉ: miền đất gần biên giới; quê mùa, thô lậu... [Bỉ nhân (tự xưng một cách khiêm tốn)].

Ổi: quê mùa. Bỉ ổi: quê kệch.

Vi thần (chữ khiêm xưng): kẻ bề tôi nhỏ nhoi.

Ý nguyên cả câu lại ngược với hai chữ Kì Vĩ (lớn lao) mà Tự Đức phong tặng, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tư Giản và nhiều người khác ngợi ca.

(17) Hòa: không cạnh tranh.

Chữ “hòa” của nhà nho (hòa hợp với thiên nhiên, đồng loại; không oán trời, trách người...). “Hòa trung” (tấm lòng hòa mục) gắn liền với “đại tiết” (sự cứng rắn, sự giữ vững ý chí với bản lĩnh, nghị lực lớn) và “lệ chí” (ý chí được nấu nung, mài sắc). Nếu vận dụng vào tình hình chính trị lúc bấy giờ, thời điểm 1876, chữ “hòa” ở đây còn gắn liền với ý thức về thời cơ, chờ thời cơ thuận lợi trong nỗ lực tự cường (“đại tiết”, “lệ chí”) để đạt cho được các mục tiêu: sạch bóng quân xâm lược Pháp (liên minh ma quỷ với giặc Tây Ban Nha, phỉ Tàu, lợi dụng “tả đạo” Thiên Chúa giáo làm công cụ, có chia chác quyền lợi), độc lập dân tộc, bình đẳng với các nước trên thế giới, khát vọng dân giàu, nước mạnh... Do đó, quan niệm chữ “hòa” của Nguyễn Văn Tường khi ngồi thương thuyết (đàm phán) với bọn cướp nước, “tả đạo”, không phải là chữ “hòa” nguyên nghĩa, cho dù tư tưởng ông vẫn ở trong khuôn khổ của ý hệ phong kiến độc tôn Nho giáo thời Nguyễn (“Chu nguyên”, “Hán tái”... là biểu tượng lí tưởng hóa của ý thức sử học nho gia).

Nguyễn Văn Tường vốn là một người chủ chiến, ý thức sâu sắc rằng chỉ có thể quét sạch quân xâm lược bằng vũ trang, nhưng lại biết linh hoạt, “hòa” một cách cơ nghi (sách lược thỏa hiệp tạm thời). Nguyễn Văn Tường từng viết rõ trong tấu, sớ đệ trình lên vua Tự Đức: Chiến – Hòa – Thủ – Chiến (“Chiến” là tiên quyết và tối hậu). (Xem thêm câu đối số 1, “Tự trào”, ở phần ngoài Thi tập, sách này).

Chữ “hòa” của Nguyễn Văn Tường được hiểu như vậy, ở từng văn cảnh cụ thể và trong suốt toàn bộ tư tưởng nghệ thuật, tư tưởng kinh bang tế thế. Tư tưởng cốt lõi chủ đạo trong hoạt động chính trị và sáng tác của ông vẫn là chủ chiến.

Mở thêm một ngoặc đơn: “Hòa trung” còn có nghĩa là: “Tấm lòng thành ấm áp, nồng hậu” (nên mới say nồng nàn như rượu ngọt dịu nhẹ). Dù với nghĩa nào, cũng gắn bó hữu cơ với “đại tiết”, “lệ chí”, “kinh luân”, “Chu nguyên”, “Hán tái” (biểu tượng được lí tưởng hóa)... Và câu trên dịch thành:

“Ấm lòng say rượu ngọt”.

(18) Quan niệm biện chứng về bản thể vũ trụ (Lí khí, Đạo) và cặp phạm trù bao quát nhất: Âm – Dương.

(19) Nhà Chu, nhà Hán ở Trung Hoa ngày xưa, vốn là biểu tượng thái bình thịnh trị (lí tưởng hóa).

56

“NGÀY ĐẦU NĂM BÍNH TÍ (1876)”
(hai mươi vần)

Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

1. Áo Vũ vững âu vàng
Thềm Nghiêu: lịch ngọc sang
Dương lại gặp chi Tiù
Bính vừa đúng lúc Dần
5. Vận đầu, được ba tốt
Răm rắp, xuân triều quan
Bùa đào tiễn năm cũ
Thẻ giờ báo hé vàng
Mặt trời, sao, đẹp cửa
10. Đai hốt nghiêm hai hàng
Thái hậu, thêm tuổi phúc
Vua mừng mẹ, lời dâng
Gương hiếu dành cho dân
Trau đức, lòng vua mộ
15. Điện sâu bay chim loan
Hướng về, ấn thao đỏ
Trước bình phong nghiêm trang
Thị thần hô vạn tuế
Như tân khoa: vua quan
20. Lá quanh hoa: hoàng tộc
Tiệc quỳnh, hương đọng ngọc
Chén rượu ánh bạc tan
Nội ngoại chia châu báu
Vui ghi xuân nghìn năm
25. Ơn huệ ban đều khắp
Thấm nồng mọi nẻo đất
Tạo hóa mở lượng sang
Lòng trời ngụ ngự bút
Suy sâu, mong giàu nước
30. Làm tròn, tài sĩ dâng
Tôi nhỏ, thẹn quê kệch (1)
Tiết lớn thiếu kinh luân
Chí hoài nung tim óc
Lòng hòa say rượu ngọt (2)
35. Rộng cao lẽ chuyển vần
Xa bằng gần, cơ thuận!
Ruộng Chu, nắng mưa nhuần
Ải Hán, gió quét bụi
Sớm vua, hát muôn ngàn
40. Vui đẹp khắp thần dân.


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(1) Lúc này Nguyễn Văn Tường đã được phong tước bá với mĩ hiệu là Kì Vĩ (lớn lao); ông tự hạ mình để khuyên nhắc vua một cách tự tin.

(2) Xin xem chú thích (17) ở bản dịch nghĩa bài này.


Cước chú của bài thơ số 56, thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):

(*) Bài tấu trên có câu: “Thần sinh trưởng ở đất [Quảng Trị – nbs.] ấy, trước kia đã làm tri huyện ở [huyện Thành Hoá – nbs.] đó hơn chín (09) năm, năm ngoái lại đi khám xét [huyện Thành Hoá cùng với Thân Văn Nhiếp – nbs.]…”. Có thể khiến người mới đọc qua hiểu rằng, Nguyễn Văn Tường sinh trưởng (sinh ra và lớn lên) ở Thành Hóa (Cam Lộ), Quảng Trị; rồi suy đoán thêm: có lẽ cụ thân sinh là Nguyễn Văn Diêu bị lưu đày lên Thành Hóa do một cuộc nổi dậy nhỏ (chống cường hào ác bá? lí tưởng, tri huyện áp bức?) như Yoshiharu Tsuboi ghi nhận từ cuốn sách của linh mục Nguyễn Văn Phong, xuất bản năm 1981 [NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 268]. Lại cứ theo mạch suy đoán ấy, sẽ cho rằng: vợ chồng cụ Diêu sinh và nuôi dạy Nguyễn Văn Tường ở đất ấy.

Tuy nhiên, “thần sinh trưởng ở đất ấy” phải hiểu là “thần sinh trưởng ở đất [Quảng Trị – nbs.] ấy”, còn Thành Hoá (huyện biên ải) chỉ là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Trị.

Căn cứ vào tư liệu Gia phả chi tộc Nguyễn Văn của Nguyễn Văn Tường và thơ của ông, ta thấy rõ: Thân sinh Nguyễn Văn Tường, ấy là cụ Nguyễn Văn Diêu (tên thường gọi là Dậu?), sinh năm Mậu ngọ, 1798, mất ngày 11. 3. năm Quý hợi, 1863, thọ 65 tuổi. Cụ Nguyễn Văn Diêu thuộc họ Nguyễn Văn ở làng An Xá Trung, huyện Đăng Xương (nay là An Cư, Triệu Phước, Triệu Phong), Quảng Trị. Và chắc chắn thân sinh của Nguyễn Văn Tường (cụ ông Nguyễn Văn Diêu, thân phụ, và cụ bà Dương Thị Liên, thân mẫu), ít ra phải có một vị là nho sinh, giỏi chữ. Bài thơ số 14, “Đắc báo nguyên tôn sinh”, có hai câu kết:

Trung hiếu ngô môn bồi dưỡng hậu
Miễn tai tố nghiệp các nghi đôn.


Lòng trung, đức hiếu nhà (họ) mình vun đắp, nuôi dưỡng đầy đặn
Gắng nhé! [Cố sức cho] truyền thống gia phong
cao khiết, trong sạch [hoặc vốn có], [mọi điều,
mọi người] đều [phải] nên trau dồi [dốc sức]

Trung hiếu họ mình đầy đặn đắp
Gắng trau nghiệp cũ, nếp ông cha!

(bản biên soạn)

Trung hiếu theo quan niệm nhà nho thời quân chủ, không thể thiếu yếu tố trung quân, và trung ở đây, rõ ràng là thống nhất với hiếu (hiếu với cha mẹ). Như thế, nếu bản chép tay của Pháp (AOM. Aix, Amiraux 12774, theo Nguyễn Văn Phong và Tsuboi, sđd., tr. 268) không sai về chi tiết này (*), thì có lẽ cụ thân sinh là Nguyễn Văn Diêu bị lưu đày lên Thành Hóa do một cuộc nổi dậy nhỏ, chống cường hào ác bá, lí tưởng, tri huyện áp bức, chứ không phải chống lại triều đình nhà Nguyễn.

(*) Nhưng lại sai về chi tiết Nguyễn Văn Tường không được đi thi vì thân sinh “đã dính líu vào một cuộc nổi dậy” (sđd., tr. 268). Ông chỉ bị cấm thi sau sự cố chữ “phúc” (ĐNTL.CB., tập 24, tr. 163 – 165; QTHKL., sđd., tr. 297).

Chùm thơ hai bài 57. 58

CUNG HỌA NGỰ CHẾ THI NGUYÊN
VẬN: “NHUẬN NGŨ NGUYỆT HỘ TỪ
GIÁ HẠNH THUẬN AN TẤN”,
NHỊ THỦ


57: BÀI A

Thánh tâm nhật dưỡng ái như niên (a)
Thân sảnh cương phùng tái ngọ thiên
Minh nguyệt lâm giang đương thủy tạ
Huân phong thanh thử độ lâu thuyền
Trân tàng cự tẩm cung hào thố (b)
Lương phất trùng yên thị thực miên
Trường ngưỡng nhất nhân hoan phụng ý
Hỗ tòng chu tiếp tự vong quyên (1).


(a) Phụng châu điểm: “Phê thường điển nhi vận bút giai cố diệu. Khâm thử”.

(b) Phụng châu phê: “Diệc diệu vận. Khâm thử”.
(1) [quyên?].
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa

57. 58

KÍNH HỌA NGUYÊN VẦN THƠ NHÀ VUA
LÀM: “THÁNG NĂM NHUẬN, THEO TỪ GIÁ (1) ĐI CHƠI CỬA BIỂN THUẬN AN (2)”,
HAI BÀI

57: BÀI A

Tấm lòng thánh (3) [mỗi] ngày phụng dưỡng, thương yêu [mẹ] như [trọn các ngày trong] năm (a)
Thư giãn, nghỉ mát, vừa gặp lại một lần nữa buổi trời trưa
[này]
Vầng trăng sáng chiếu xuống sông, ngay chính giữa nhà thủy tạ
Ngọn gió lành lọc nắng, [gió] vượt qua [sông], [vào] thuyền có lầu gác
Thức ăn quý cất trữ [trong] cái tẩm (: chằm, chum) lớn, [các thị tì] dâng lên món ăn thịt chặt cả xương, đồ hải sản lẫn lộn (b)
Hơi mát thổi phất [qua] khói thuốc lá nằng nặng [bay (:bay lững lờ)]; [các thái giám] đứng hầu [nhà vua, thái hậu] bữa ăn, giấc ngủ
Ngưỡng mộ một người [nêu gương] (4) đã lâu dài, bền bĩ, [đoàn tùy tùng] vui vẻ phụng vâng ý [thái hậu]
[Mọi người] đi theo giúp đỡ, phục vụ, [lo] việc thuyền [rồng], chèo [quế], [nhà vua] tự quên cả mệt nhọc ưu uất.

(1) Từ giá: xe của người mẹ nhà vua (thái hậu).

(2) Xin xem chú thích (1), bài 58, bản dịch nghĩa.

(3) Chỉ vua Tự Đức, người nổi tiếng có hiếu.

(4) Vua Tự Đức rất ngưỡng mộ ông Đôn Di. Xem chú thích (8), bản dịch nghĩa bài 56. Theo văn cảnh: đoàn tùy tùng ngưỡng mộ đức hiếu của Tự Đức.

(a) “Kính [nhận] nét điểm son đỏ [của vua Tự Đức]: “Phê [rằng]: Theo [loại] điển chế thường mà vận dụng hay, cho nên tinh diệu. Kính theo đó”.

(b) “Kính [nhận] lời phê son đỏ [của vua Tự Đức]: “Cũng lại vận dụng tinh diệu. Kính theo đó”.

57. 58

“THÁNG NĂM NHUẬN
THEO XE THÁI HẬU ĐI THĂM CỬA
BIỂN PHÒNG THỦ THUẬN AN”,
HAI BÀI

57: BÀI A

Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

Lòng thánh phụng thờ ngày tựa năm (a)
Trời trưa lại gặp, mát thân tâm
Soi sông, thủy tạ ngời trăng ghé
Lọc nắng, thuyền lầu lành gió thăm
Cất quý tẩm to dâng cỗ béo (b)
Phất êm khói lửng canh giường đằm
Mãi noi một người vui vâng ý
Quên nhọc, theo chèo, thị nữ chăm.


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(a), (b) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.

Chùm thơ hai bài 57. 58

CUNG HỌA NGỰ CHẾ THI, NGUYÊN
VẬN: “NHUẬN NGŨ NGUYỆT HỘ TỪ
GIÁ HẠNH THUẬN AN TẤN”, NHỊ THỦ


58: BÀI B

Hải môn kha (khả) hạm giá ngao phi
Biến phúc từ vân thử khí vi
Quế trạo thuận lưu thanh tế tế
Da lâm thùy ấm lục y y
Sa đôi cổ lũy thăng thiên hiểm
Pháo trĩ tằng đài phục viễn uy
Thử địa duyệt phòng tiên hiếu trị
Nam thiên vĩnh yết Vụ tinh huy.


VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
(và dịch thơ ở bài giới thiệu).

57. 58

KÍNH HỌA NGUYÊN VẦN THƠ NHÀ VUA
LÀM: “THÁNG NĂM NHUẬN THEO XE THÁI
HẬU ĐI THĂM CỬA BIỂN PHÒNG THỦ
THUẬN AN (1)”, HAI BÀI

58: BÀI B

[Ở] cửa biển, thuyền lớn, thuyền binh, xe vua [như đàn] rùa biển tung bay
Xem trọn (ôm khắp) [là] mây an lành, không khí sớm mai dịu nhẹ
Chèo quế (3) theo dòng [nước], [tạo] âm thanh nho nhỏ
Rừng dừa cúi bóng râm, màu xanh lá [nối] theo màu xanh lá
Cát dồn [lên] lũy xưa, vươn [lên] trời [thế] hiểm trở [cho địch]
Súng dựng [ở pháo] đài nhiều tầng, làm nên sự oai phong [cực kì] dài rộng
Đất này, [vua] duyệt xét sự phòng thủ, [lấy] đức hiếu [làm] đầu để sửa trị (4)
Trời [nước] Nam mãi mãi tỏa bày ánh sáng sao Vụ (5)!

(1) Thuận An: cửa biển, các đồn hải phòng ở Thừa Thiên – Huế (cửa sông Hương). Xin xem Chuyện triều Nguyễn, sđd., tr. 102 - 122, các bài: “Thuận An”, “Công cuộc phòng thủ miền duyên hải”, “Một cảnh đau lòng”; ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 174 - 175.

(2) Trạnh: con rùa lớn ở biển.

(3) Chèo quế: chèo bằng gỗ quế; cũng là một cách dùng mĩ từ, chỉ chèo ở thuyền rồng (thuyền vua).

(4) Theo quan niệm phong kiến Nho giáo, sĩ, dân và lính cũng phải giữ đạo hiếu với vua, như con cái hiếu với cha mẹ.

(5) Sao Vụ: một loại sao (chưa rõ ý nghĩa là gì). Tên đầy đủ là sao Vụ Nữ (*). Có lẽ tác giả muốn nói đến đức tính của vua Tự Đức là luôn có hiếu với mẹ, chăm lo, yêu thương các bà vợ (!). Cũng có thể thấy vai trò tích cực của bà Từ Dũ, ít ra là trong giai đoạn này (tổ chức phòng thủ...). Ngôi sao chiếu mệnh của Tự Đức có tên là Từ Dũ (cũng đọc là Từ Dụ)! Bà gần như một thái thượng hoàng!

Lời sách văn tấn tôn danh hiệu “Từ Dũ thái hoàng thái hậu”, vào tháng ba âm lịch năm Ất dậu (1883), có câu: “Băm sáu năm treo cao gương mẹ, bóng Vụ tinh soi sáng bao lần” (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 205).

57. 58

“THÁNG NĂM NHUẬN, THEO XE THÁI
HẬU ĐI THĂM CỬA BIỂN PHÒNG THỦ
THUẬN AN”, HAI BÀI

58: BÀI B

Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

Thuyền xe cửa biển: trạnh rồng bay
Trông khắp, mây lành, nắng dịu thay
Chèo quế theo dòng, êm mát tiếng
Rừng dừa rủ bóng, ngát xanh cây
Cát dồn lũy cổ, vươn đồ hiểm (1)
Súng dựng đài cao, dàn trận oai
Chốn ấy, khám đồn, dùng hiếu sửa
Trời Nam sao Vụ sáng ngời hoài.


(bản biên soạn)

(1) Có thể dịch thoát cách khác:

Cát dồn lũy cổ, vươn cừ vững
Súng dựng đài cao, giăng xích oai


“Cừ” không chỉ là các thanh cây làm nòng cốt cho việc đắp lũy, mà còn là những thanh gỗ cắm xuống lòng sông để ngăn chặn tàu thuyền giặc. “Xích” cũng được giăng ngang sông để cản tàu địch tấn công. Tuy nhiên, chữ “đồ” đối với chữ “trận” (theo từ ghép “trận đồ”) cũng khá đạt.


Cước chú của chùm thơ bài số 57, 58, bài B (58), thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):

(*) Chữ “Vụ” gồm chữ “vụ” là “công việc, chuyên chăm” (thiếu bộ lực), và chữ “nữ” là “phụ nữ” [một chữ chỉ nghĩa, một chữ chỉ âm đọc]. Chữ “Nữ” vẫn được ghép thêm với chữ “Vụ” vừa chiết tự. Cả hai chữ thành từ ghép chính phụ: Vụ Nữ (: người phụ nữ chuyên chăm theo công việc phù hợp với sức lực yếu đuối của đàn bà). [Xem: Thiều Chửu, HVTĐ., sđd., tr. 60, 131].



Bài 59

HẠNH THÚY VÂN SƠN


1. Thúy Vân hà xứ thị
Đột ngột quần phong tiền
Quần phong nhất tề hạ
Độ thủy độc hoành phiên
5. Hành cung bàng kì trắc
Linh tích trĩ kì điên
Đôi nhiên ngọa thạch lão
Sâm nhiên cổ (a) mộc tiên
Lục âm vô hạ thử
10. Thúy sắc hữu xuân yên
Điểu ngữ thần chung minh
Tịch dương mê (mi) lộc miên
Hoàn liệt mạc phỉ sơn
Thúy Vân hà kì nhiên
15. Thẩn hữu thần thao chu
Nhất hoằng thanh thả nghiên
Thừa hứng phục đăng lâu
Nhất đới lạc bình điền
Mỹ tai danh thắng địa!
20. Thần du lịch hữu niên
Ngự kiều liễn lộ xứ
Cửu dĩ tĩnh trần quyên
Phùng kim hạ ngũ nguyệt
Tích (b) dư nguyệt phục viên
25. Thiên tử mệnh duyệt vũ
Chu sư hàm tỉ kiên
Triêu phát Hương Giang tân
Tiền hậu như thiền liên
Vãn khai Thuận Trực áp (sạp)
30. Thiều thiều vân thủy thiên
Vạn trạo phù trung lưu
Quân khí mộ ích kiên
Chu khinh phong tự sinh
Phong vi thủy tự liên
35. Thúy Vân tiệm giác cận
Ngật lập như trữ diên
Đăng hoa thủy tạ mãn
Nhiêu (nghiêu) tử nghỉ lâu thuyền
Tiên trượng quang như họa
40. Bồng đảo bất tiêu thiền.


(a) Phụng châu điểm.

(b) Phụng châu điểm.

VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm...
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa

59

NHÀ VUA ĐI THĂM NÚI THÚY VÂN (1)

1. Thúy Vân, [núi] ấy ở đâu?
Cao ngất một mình [giữa] những ngọn núi phía trước
Những ngọn núi cùng một lần hạ thấp xuống
Vượt qua mặt nước chỉ một mình [núi ấy] đứng ngang, có vẻ dáng phong lưu, văn nhã
5. Cung để vua đi thăm ghé nghỉ (2) ở bên cạnh, chênh chếch với nơi ấy
Dấu tích linh thiêng đứng lẻ loi [ở] đỉnh cao nơi ấy
Chất chồng nhưng nằm [kề nhau]: đá tảng cứng bền (già nua)
Rậm rạp, ấy là cây cối lâu đời (a) [vẫn] rắn chắc (tươi đẹp)
Màu xanh lá, bóng râm [như làm cho] nắng mùa hè không có
10. Sắc biếc có khói (sương) mùa xuân!
Tiếng nói [của] chim chóc [cùng] tiếng chuông [của] cung vua vang lên
Buổi chiều hôm, hươu nai [đến] ngủ
[Quân] vây quanh, giăng bày [dù] núi không có kẻ cướp
Mây biếc sao biếc thế!
15. Huống chi những chiếc thuyền duyệt binh [cũng] có
tâm hồn
Nước rộng mà sâu, trong vắt, thanh thản, đẹp tươi [như] một
Nhân lên niềm hứng khởi, [ta] theo lên lầu
Một dải [đất cơ hồ] rơi xuống [thành] ruộng đồng bằng phẳng
Đẹp tươi thay [cõi] đất danh thắng!
20. Cung vua (3) đi trải nghiệm [nơi đây] (trải qua) [dễ] có [cả] năm [trời]
Cầu vua đi, đường xe vua qua [ở] cõi [này]
Lâu rồi vốn dĩ tĩnh lặng, sạch bụi
Gặp nay, tháng năm mùa hè
Dấu xưa (b), trăng lại tròn
25. Đấng con trời ra lệnh duyệt võ (: duyệt quân)
Đoàn lính [thủy, giang] thuyền, tất thảy đều sánh nhau, chen [vai]
Sáng sớm xuất phát ở bến sông Hương
Tiền quân, hậu quân như đàn ve ve nối nhau
không dứt
Buổi chiều mở đập Thuận Trực (4)
30. Cao vót, xa xăm [là] mây, nước, vòm trời
[Hàng] vạn mái chèo nổi [lướt] giữa [dòng sông] chảy
Khí thế quân lính, buổi chiều, càng thêm vững mạnh
Thuyền nhẹ [lướt], gió như [do thuyền mà] tự tạo ra
Gió nhẹ [thổi], nước cơ hồ [do gió mà] tự lan sóng
35. [Núi] Thúy Vân dần dần thấy gần lại
[Núi] đứng nghiêm như chờ đón đã lâu
Hoa đèn đầy nhà thủy tạ
Những chàng trai, cô nàng hái củi đậu thuyền [kề] thuyền lầu (5)
Gươm, đao, gậy, côn [của] tiên, đạo sĩ [múa lên], ánh sáng [tóa ra] như [bức] tranh vẽ
40. Đảo Bồng (6) [vẫn] không mất [nét] thiền [tâm] (7).

(1) Núi Thúy Vân (Túy Vân), tỉnh Thừa Thiên - Huế. Xem chú thích (1), bản dịch nghĩa bài 60.

(2) Hành cung Thúy Vân (xem ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 52).

(3) Cung vua: chỉ chung cả vợ và con (nếu có), cùng các thái giám, thị tì đi theo vua.

(4) Thuận Trực, cách kinh thành 15 km, bên bờ sông Lợi Giang, có một khu rừng cấm có tên ấy. Chắc trùng tên với hành cung được nhắc đến, vốn ở xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, xa hơn nhiều (xem chú thích của Viện Sử học, tập 31, sđd., tr. 258).
Nếu không phải là địa danh, xin tạm dịch: “Buổi chiều mở xuôi thẳng [dòng nước qua] đập”. Áp (còn đọc là sạp): đập nước chắn ngang sông, chỉ có một cánh cửa, khi mở đủ cho từng chiếc thuyền đi qua (nên chiếc này, chiếc kia nối nhau; đứng ở xa, trên đồi cao, trông như đàn ve nối đuôi nhau trên cành cây), [HVTĐ., sđd., tr. 719].

(5) Đây là một chi tiết khá lạ, bởi thời phong kiến có luật “phạm tất” (vi phạm lối cấm hay chỗ cấm lúc vua đi hoặc ghé lại). Có lẽ là hình ảnh mộng tưởng “Hoa Tư” (xem chú thích (9) bản dịch nghĩa bài số 55), hoặc “nghiêu tử” đây là các vị sư (xem từ “tiên trượng”, từ “Bồng đảo”, “thiền” ở hai câu dưới).

(6) Đảo Bồng: đảo Bồng Lai, một trong ba ngọn núi của tiên cảnh Bột Hải, có tính chất thần thoại.

(7) Xin lưu ý câu cuối này. Suốt bài thơ diễn tả sự hùng tráng của quân lính, nhưng kết thúc bằng một nét thanh tịnh ở cõi bồng lai của đạo Phật – cõi hiện thực. Vì sự thanh tịnh mà hùng tráng; hùng tráng để cho tâm và cảnh thanh tịnh trong ánh từ bi. Thanh tịnh, từ bi cùng với hùng tráng, với ý chí, quyết tâm diệt giặc ngoại xâm là hai mặt của một chỉnh thể tâm thức Phật giáo Việt Nam cổ truyền: “Đại hùng, đại lực, đại từ bi”.

Ngày nay, thế giới hầu như đi vào chiến tranh kinh tế. Do đó, phải hùng mạnh cả về kinh tế, chứ không chỉ quốc phòng, mà then chốt vẫn là khoa học - kĩ thuật (công nghệ).

(a) “Kính [nhận nét] điểm [bằng bút] son [của vua Tự Đức]”.

(b) “Kính [nhận nét] điểm [bằng bút] son [của vua Tự Đức]”.

59

NHÀ VUA ĐI THĂM NÚI THÚY VÂN

1. Nơi đâu là Thúy Vân
Riêng vút giữa dãy trước
Dãy núi, thấp một lần
Vượt nước, một núi văn
5. Cạnh hành cung, chênh chếch
Dấu đỉnh lẻ, linh san!
Đá xưa chồng, nằm vững
Cây cổ (a) rậm đẹp ngàn
Bóng xanh không nắng hạ
10. Sắc biếc ngút khói xuân
Lời chim, chuông sớm vang
Nắng chiều, hươu nai ngủ
Không phỉ núi, quân giăng
Thúy Vân! Thúy Vân!
– mây biếc – sao biếc thế! (1)
15. Thuyền thao luyện có tâm
Nước sâu, trong một vẻ
Lên lầu, hứng càng nhân
Một dải rơi: ruộng bằng!
Đẹp quá nơi danh thắng!
20. Năm nay vua hoài thăm
Đường vua, cầu vua sang
Đã lâu sạch bụi lá
Gặp nay tháng năm hạ
Dấu xưa (b) lại tròn trăng
25. Lệnh duyệt quân, vua ban
Sánh vai, thế lính vững
Sớm, từ bờ Hương Giang
Đàn ve: tiền, hậu quân!
Chiều, mở đập Thuận Trực (2)
30. Trời, mây, nước mênh mang
Vạn chèo trên dòng lướt
Hùng khí chiều hiên ngang
Gió tự sinh, thuyền vút
Gió khẽ, sóng tự lan
35. Dần đến gần Thúy Vân
Núi đứng nghiêm đợi đón
Thủy tạ đèn hoa giăng
Ghe tiều ghé thuyền tầng
Như tranh, gươm bụt múa
40. Đảo Bồng: thiền không tan!


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(1) Có thể rút gọn câu này lại, theo thể 5 chữ:

“Mây biếc sao biếc thế!”.

hoặc:

“Thúy Vân, sao biếc quá!”

(a), (b) Xin xem ở cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.

(2) “Chiều, mở đập xuôi thẳng”. Xin xem chú thích (4) của bản dịch nghĩa bài này.



Bài 60

THÚY VÂN SƠN


Phụng châu phê:
“Tự toàn hảo. Khâm thử!” (a)

Bất đồng linh thái duy nam củng
Thiên tráng thần cư tác thử sơn
Chướng (b) khứ hoành lan ngư phiếm ổn
Ấm lưu cổ thụ điểu quy nhàn
Viễn khan yêm ái vân thiên tụ
Cận ấp trừng thanh nguyệt nhất loan
Tự (c) tích thắng du đa thử địa
Cửu trùng tâm sự trấp niên gian.


(b), (c) Phụng châu điểm.

NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa

60

NÚI THÚY VÂN (1) (a)

[Tuy] không [lớn] bằng núi Linh Thái, [song núi Thuý Vân]
vẫn chầu về [phương] Nam
[Dưới] bầu trời hùng tráng, cung vua ở (tọa lạc), [tận sâu xa, chính điều đó đã] tạo nên ngọn núi này
[Ấy là] tấm bình phong (b) loại trừ [các đợt] sóng lớn [tiến vào hàng] ngang, dân đánh cá lênh đênh [trên đầm phá một cách] yên ổn
[Núi có] bóng mát đọng lại [ở bao] cây cổ xưa (: cổ thụ), chim chóc [bay] về nhàn nhã
Nhìn xa xa [trông như] ướp muối [trắng], [hơi mây]
ngùn ngụt, mây [che trên] ngàn ngọn núi
Lui [lại], gần gũi, [thấy] trong lặng, xanh biếc [như lọc],
[ánh] trăng [trải khắp] một đầm phá
Từ (c) trưóc, đã đi ngắm cảnh đẹp nhiều [lần ở] đất này
[Vẫn biết] nỗi lòng [của] cửu trùng (3) [trong] thời gian hai mươi năm.

(1) Núi Thúy Vân, thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 130 ghi: “Ở phía đông bắc huyện Phú Lộc; phía tây núi kề phá Hà Trung; trước [núi này] gọi là Mĩ Am, năm Minh Mệnh thứ 6, cho tên là núi Thúy Hoa, năm Thiệu Trị thứ 1 đổi tên hiện nay; có bài bia ghi thắng tích Thúy Vân”.

(2) Linh Thái còn là tên khác của núi Quy Sơn (núi Ruà) [ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 130 - 131).

(3) Cửu trùng: chín tầng; chỉ nhà vua.

(a) “Kính [nhận] lời phê bằng mực son đỏ [của vua Tự Đức]: “Gần như hay đẹp hoàn toàn. Kính vâng [theo] đó [nhé]!””.

(b) “Kính [nhận] điểm nét son đỏ [của vua Tự Đức]”.

(c) “Kính [nhận] điểm nét son đỏ [của vua Tự Đức]”.

60

NÚI THÚY VÂN (a)

Không cùng Rùa thánh, nam chầu đây
Vua ở, trời hùng tạo núi này
Dải (b) chặn sóng ngang, buồm thả ổn
Bóng lưu cây cổ, chim nhàn đầy
Ướp mờ xa ngắm nguồn mây tỏa
Lọc biếc gần lui phá nguyệt say
Từ (c) trước viếng hoài miền cảnh đẹp
Hai mươi năm! Lòng vua chưa phai...


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(a), (b), (c) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.

(1) “Lòng vua, hai chục năm, chưa phai…”.

Hoặc:

“Lòng vua hai kỉ cứ buồn cay… ”.


Bài 61

TƯ HIỀN TẤN


Bình thành Vũ tạc sơ
Trạch quốc điện môn lư
Liễu nhiễu quần phong bão
Oanh hồi nhất thủy từ
Hà Trung thu tích hậu
Thuận tấn chuyển lưu thư
Ba ổn trung lưu tiếp
Phàm quy viễn phố ngư
Trùng dương thông nhãn xứ
Vạn hác củng Triều dư
Vi (vị) (a) báo hoàn trung thủy
Mang mang hải lượng hư.


Phụng châu phê: Nhĩ thức lực giai khả đáo, bất chuyên cử nghiệp dĩ dã; đãn bạc, chi bất vi, nhĩ diệc bất hạ dã; hà xích, phiền; nhị thủ giai vô tì, vô biểu hiện (kiến).

Khâm thử!
(b)

(a) Phụng châu điểm.

VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
(và trích dịch ở bài giới thiệu).
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa

61

CỬA BIỂN HẢI PHÒNG TƯ HIỀN (1)

[Công] bình định, làm nên (2)
[của] vua Vũ (3) là đã rạch ròi, thông suốt [bờ cõi]
Ơn huệ [của] nước [là đã giúp dân] vững chãi nhà cửa
Những ngọn núi quanh co, vấn quanh, ôm lấy
Con suối [nhỏ] vòng quanh lại [một dòng nước] chậm rãi
[Phá] Hà Trung (4) thu lấy, dồn chứa đầy ắp
Cửa hải phòng Thuận [An] chuyển động,
tuôn chảy thư thả
Sóng êm ả, giữa dòng [là thuyền với] mái chèo
[Các] cánh buồm quay về bến cá xa
Biển cả (: trùng dương) [là] nơi mở thông [tầm] mắt
Nước khe núi, ao hồ chầu về ư?
Bởi (a) [muốn] báo đền trong cõi hoàn vũ (cõi đất trời) [bằng] nước
[Nên] lai láng, xa xăm; lượng biển (sức chứa của biển, tấm lòng của biển) [thế đấy mà cũng như thể] không có gì (: hư vô)! (b) (5)

(1) Thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. Xem chú thích (2), bản dịch nghĩa, bài 63.

(2) Bình thành: do bốn chữ “địa bình thiên thành” (sửa sang, tổ chức lại việc dưới đất; làm cho nên, cho an ổn sự lệ trên trời). Nghĩa bóng: sửa trị mọi việc quan trọng. [Bửu Kế, TĐTNTN., sđd., tr. 71].

(3) Vua Vũ ở Trung Hoa cổ đại, lập nên nhà Hạ.

(4) Cửa biển phòng thủ Thuận An và Tư Hiền thuộc đất kinh sư (thủ đô, Thừa Thiên – Quảng Trị) do triều đình trực tiếp quản lí, chỉ đạo. Xem chú thích (1) về cửa Tư Hiền, bản dịch nghĩa bài thơ số 58 và chú thích (2) bài số 63.

(5) Khái niệm “hư vô” của Lão Tử. Xin xem chú thích (5) của bản dịch nghĩa bài số 34 và chú thích (13) ở bản dịch nghĩa bài số 65.

(a) “Kính [nhận] điểm bút son [của vua]”.

(b) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua]: “Kiến thức của ngươi đều thấu đáo, [nên nói] không chuyên về dạng chỉ học cốt để thi cử mà thôi, là phải vậy! [Nhưng] chỉ một mình [ngươi làm thơ] ít ỏi; ấy là [bởi] không [chịu] làm; vậy cũng thật [ngươi] cũng không được rảnh rỗi. Sao một thước [chữ = một, hai cột chữ thôi]? Bận việc quá ư? Hai bài đều không có tì vết gì, [nhưng] cũng không lộ liễu gì [tức là ý tứ kín đáo; sâu kín là ưu điểm trong thơ]! Kính vâng đấy nhé!”” – [Lời châu phê của vua Tự Đức].

Hẳn nhà thơ Nguyễn Văn Tường không chỉ bận công việc của một thượng thư Bộ Hộ, Thương bạc đại thần (phụ trách ngoại giao), mà ông còn bận lòng cho những bài thơ tâm huyết của mình. Thơ thù tạc, đúng hơn là thơ “tụng ca”, làm để xướng họa với đế vương, hẳn là quá đỗi... khó lòng!

61

CỬA BIỂN HẢI PHÒNG TƯ HIỀN

Bình thành như Vũ thưa
Ơn nước, xóm vàng mùa
Núi lượn từng cung ấp
Khe vòng một suối thư
Hà Trung thu chứa mộng
Cửa Thuận chuyển xuôi mơ
Chèo rẽ dòng sóng lặng
Buồm về bến cá mờ
Bể khơi thông mắt đấy!
Ngòi lạch chầu triều ư?
(a) Đền đất trời: tình nước
Biển lòng rộng hư vô! (b)


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(a), (b) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.



Bài 62

NGUYÊN ĐÁN TẢO CỨ QUẢNG YÊN
TUẦN PHỦ HỒ TRỌNG LIỄN MÃ ĐỆ
TRIỆP TỰ QUAN BINH ĐẠP BÌNH
PHÙ LONG PHỈ SÀO,
NHÂN CHÍ KÌ SỰ


1. Ngã hoàng phủ thử chước khoan nghiêm
Thiên đạo âm dương hỗ hiển tiềm
Hàn uy phủ khước đông tiền lạp
Xuân dương dĩ phổ nhân đồng chiêm

5. Lí đoan vạn tượng chính tân sảng
Si mị tận tiêu thiên nhật lãng
Đình liệt bái khánh sâm y quan
Thúc văn tiệp tấu bình tặc đảng

Tu lai mã đệ Quảng Yên đồng
10. Hỉ kiến biên thần tự chiến công
Ngưỡng duy miếu đường thụ thành toán
Kháp triï thái vận phương hưởng thông

Ngã quốc hải đông dữ Thanh tiếp
Nhất đới cát đồ (1) liên u chung
15. Thanh lại kế cùng lân vi hác
Trì ngư vô đoan tao bỉ hung

Thanh tướng lưỡng lâm vô thốn hiệu
Đạn nan chung thị di khấu sao
Kình huyệt thố quật một gian xuất
20. Niên lai biên manh khổ náo sao

Thuấn đức đản phu giác giã mê
Tự tây tự đông ngật (cật) thanh giáo
Tranh nại động đình chướng kí thâm
Nan cách nhĩ tâm dịch nhĩ mạo

25. Chu sư ninh hoãn tiêm cừ khôi
Phù Long nhất cổ thiên hiểm thôi
Tướng biền dụng mệnh vô kiên địch
Thanh linh hách trạc võ công khôi

Kỉ công hựu thích hành khánh điển
30. Phàm bách nhung thần thị chi miễn
Thùy vị ba đào bất khả khai
Vạn lí trùng dương tương tận quyển

Vãng phục hóa cơ thuấn tức chuyển
Tương cơ yếu tại lượng thâm thiển
35. Tự cương duy thánh thể càn nguyên
36. Ngu thần thiết nguyện sách nô kiển (2).



Tự Đức nhị thập bát niên, chính nguyệt, nhị thập nhật, thần Nguyễn, phụng ứng chế (a).

(1) Cát Bà, Đồ Sơn?

(2) [kiển? trại?].

VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
(và trích dịch ở bài giới thiệu)
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa

62

SÁNG SỚM NGUYÊN ĐÁN, THEO TUẦN
PHỦ QUẢNG YÊN (1) HỒ TRỌNG LIỄN (2)
[QUA] NGỰA [TRẠM] ĐỆ TRÌNH TẬP TÂU
[VỀ VIỆC] QUAN QUÂN DẸP YÊN Ổ PHỈ
[TẠI] PHÙ LONG (3), NHÂN [ĐÓ] GHI CHÉP
[LẠI] VIỆC ẤY

1. Vua ta vỗ về [giặc] ấy [để tình hình yên ổn],
lường liệu, châm chước giữa khoan thứ
[và] nghiêm khắc
Đạo Trời, âm [và] dương cùng [tác động] lẫn nhau, hiển hiện hoặc ẩn kín
[Sự] oai nghiêm lạnh lùng vừa xua đuổi mùa đông trước [tháng] cuối [năm]
Ánh sáng mùa xuân đã [tỏa] khắp, [mọi] người cùng ngẩng mặt mà trông
5. [Việc] sửa trị [một cách] ngay thẳng vạn điều (phép tắc) [cho] đúng đắn, mới mẻ, sáng sủa
Ma quỷ tan hết, ánh ngày [của] bầu trời tươi sáng
Sắp hàng ngang [ở] triều, [các quan] lạy mừng, áo mão quan viên nghiêm chỉnh
Bất chợt, nghe tin báo về, tấu trình [đã] bình định bè đảng giặc phỉ
Bỗng ngựa [trạm] (4) đệ trình cái ống tre [đựng công văn của tỉnh] Quảng Yên (3)
10. Vui mừng thấy kẻ bề tôi [ở] biên ải trình bày
chiến công
Ngẩng mặt suy tưởng (= kính nghĩ), triều đình trao cho kế sách [để] làm xong việc [dẹp phỉ]
Vừa đúng gặp được vận tốt [nên] mới hưởng sự vẻ vang (thông đạt)
Phía đông biển nước ta với [biển nước] Thanh (5) [ranh giới] liền [nhau] (6)
Một dải [đất], loại cây cỏ leo bò [trên đất], bùn sình [cùng liền], liền [cả tiếng] chuông sâu lắng
15. Quan lại [nhà] Thanh tính hết kế [vẫn để tình] láng giềng thành ao, lạch (hang hốc)
Cá ao, không nguyên cớ (vô cớ), gặp phải
sự hung ác kia (7)
Tướng [nước] Thanh hai lần vào [trận], không [một] tấc (8) hiệu quả
Ngại [trước] khó khăn, cuối cùng, [chính việc] ấy [đã] để sót bọn giặc cướp bóc
Hang cá kình, hang thỏ, mở (đào) ra [nơi] chìm khuất (hầm ngầm)
20. Năm qua, dân biên ải đi ngang [phải] đắng [cay],
náo động
Đức [của] vua Thuấn (9) [hóa ra là] sự lừa dối đủ [cách], mê mờ ấy là tỉnh táo!
Từ phía tây, từ phía đông không còn cả dự dạy dỗ [dù chỉ dạy dỗ bằng] tiếng nói!
Vì sao tranh đoạt [từng] cái hang, [từng] cái sân,
[từng] bức bình phong? [Sự việc này đã được] ghi khắc sâu đậm
Khó thay đổi được tâm địa chúng mày, gương mặt [hay hình tượng (10)] chúng mày
25. Sư đoàn (quân lính) [lần lượt thay phiên theo]
chu kì (11) cớ sao lại ngừng việc giết sạch
bọn đầu đàn (thủ lĩnh của phỉ)?
Một chiếc trống Phù Long [cũng là] muôn vàn [thế trận] hiểm độc xô lấp [hang ổ ở núi]
Tướng võ vâng mệnh lệnh [vua ban], không còn quân địch vững mạnh
Oai linh [của] giọng tiếng, sự rửa [hờn] hừng hực lửa, công lao chiến đấu bậc nhất [của tướng sĩ ta]!
Ghi chép công lao lại đúng dịp tiến hành điển
lễ vui mừng (12)
30. Hễ là [người thuộc vào] hàng trăm quan võ bề tôi, [được] báo cho biết để ra sức
Ai bảo sóng lớn không có thể loại bỏ
(làm êm lặng) được?
Vạn dặm biển trùng trùng sắp sửa cuốn sạch tất thảy [bọn giặc đầu sỏ]
Đi qua – trở lại [theo lẽ âm dương tuần hoàn], cái máy chuyển hóa (: máy huyền vi) (13), [trong] chớp mắt, [trong một nhịp] hơi thở, [sẽ] chuyển xoay
Cùng với cái máy [tạo hóa] (13), [việc] trọng yếu còn [phải] đo lường nông hay sâu
35. Tự mình [ở] chỗ giới hạn [của mình mà] suy nghiệm:
thánh thể (14) [nhà vua là] khởi đầu
của quẻ Càn (15)
36. Kẻ bề tôi ngu muội (16) trộm mong mỏi
[tự] thúc roi con ngựa xấu chậm chạp.

(1) Tỉnh Quảng Yên thời Nguyễn, nay thuộc Quảng Ninh.

(2) Hồ Trọng Đỉnh (xem ĐNTL.CB., sđd., tập 33, tr. 159).

(3) Phù Long (tên một hòn đảo), thuộc tỉnh Quảng Yên xưa (xem ĐNNTC., tập 4, sđd., tr. 32).

(4) Ngày xưa, để đưa công văn và tiện cho nhiều việc khác của nhà nước phong kiến, người ta thiết lập các trạm dọc đường, phương tiện là ngựa, gọi là ngựa trạm.

(5), (6) Biển Bắc Bộ, ngoài khơi xa, có hải phận của đảo Hải Nam thuộc Trung Hoa. Trung Hoa bấy giờ là Đại Thanh.

(7) Cách nói ẩn dụ: nhân dân ta (cá ao) trước hiểm hoạ là bọn giặc phỉ, tàn dư Thái Bình thiên quốc Tàu.

(8) Tướng Thanh: Phùng Tử Tài, Đảng Mẫn Tuyên... Một tấc thước ta: 4 cm; tức là một chút, một tí...

(9) Vua Thuấn: vua nhà Ngu bên Tàu, thời cổ xưa. Ở đây là chỉ quân Thanh với ý mỉa mai.

(10) Chỉ bọn giặc Cờ (tàn dư của Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa). Xin xem chú thích (2) bản dịch nghĩa bài 4.

(11) Vua Chu? Chữ “chu” là chu kì? Với nghĩa nào cũng nhằm chỉ quan quân thuộc triều Nguyễn nước ta. Vua Chu, thuộc cổ đại Trung Hoa, vốn là biểu tượng cho minh quân, được lí tưởng hóa.

(12) Dịp mừng xuân Ất hợi, 1875 [xem chú thích (2) phía trên]. Dịp này, Tự Đức có làm một bài thơ về chiến thắng ở Phù Long.

(13) Quan niệm về tạo hóa của nho sĩ ngày xưa. Nguyễn Gia Thiều trong Cung oán ngâm khúc đã từng viết về “cơ trần”:

“Máy huyền vi đóng mở khôn lường...”
(CONK., d. 50)

“Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán...”
(CONK., d. 73)

“Cái quay búng sẵn trên trời...”
(CONK., d. 91)

Ở đây, nhà thơ Nguyễn Văn Tường quan niệm theo lẽ biến dịch âm – dương của Kinh dịch, một quan điểm biện chứng Phương Đông (xem lại câu 1, 2).

(14) “Thánh thể” (thân thể của bậc thánh, thần), từ tụng xưng quy ước về “lễ” (một giềng mối lớn, thường hằng, trong tam cương, ngũ thường). Đây là “lễ” trong cách xưng hô trước “thánh thượng”, “thiên tử” của kẻ bề tôi (hạng tôi tớ) (!). “Trẫm”, lại là đường chỉ khâu áo giáp cho binh tướng.

(15) Quẻ Càn tượng trưng cho Trời, ở đây chỉ nhà vua. Xem chú thích (14), bên trên.

(16) “Ngu thần”, từ tự khiêm xưng của quan lại trước vua. Các kẻ sĩ, quan chức nho giáo còn dùng các từ như “bỉ nhân” (kẻ quê mùa), “thiểm” hoặc “thiểm chức” (người làm quan biết nhục nhã, xấu hổ) khi nói với kẻ dưới phận, dưới chức, so với bản thân. Đó là tập quán văn hóa ở Đông Nam Á. [Xem TĐTV., sđd., tập hạ, tr. 404].

(a) Lời tác giả Nguyễn Văn Tường cuối bài thơ:
“Ngày 20 tháng giêng, năm Tự Đức thứ hai mươi tám [1875, Ất hợi – nbs.], thần: Nguyễn, kính cẩn đáp lại bài thơ vua làm”.

62

SÁNG SỚM ĐẦU NĂM, THEO TUẦN
PHỦ QUẢNG YÊN HỒ TRỌNG LIỄN
(ĐỈNH) VỚI CÁC TẬP TẤU SỚ
ĐỆ TRÌNH QUA NGỰA TRẠM VỀ VIỆC
QUÂN BINH DẸP YÊN Ổ PHỈ TẠI PHÙ
LONG, NHÂN ĐÓ GHI CHÉP LẠI
VIỆC ẤY

1. Vua vỗ yên giặc, khoan và nghiêm
Đạo trời âm dương, kín và rõ
Trước chạp, oai lạnh đã xua đông
Ánh xuân vốn rộng, dân ngẩng trông

5. Sửa trị vạn điều, đúng, mới, sáng
Ma quỷ hết sạch, ánh trời tươi
Lệ triều lạy mừng, nghiêm áo mão
Chợt nghe tin thắng, giặc vỡ rồi!

Bỗng ngựa dâng ống, tấu Quảng Yên
10. Vui thấy chiến công quân vùng biên
Ngẩng suy, Triều đình trao kế dẹp
Vừa gặp vận tốt, vinh nối liền

Nước ta biển đông kề biển bạn
Chung ngọn cỏ bùn tiếng chuông chung
15. Thanh cạn, láng giềng thành hang hốc
Cá ao vô cớ gặp ác ngông!

Tướng Thanh hai lần không chút thắng
Ngại khó, rốt cùng sót giặc cắn
Hang kình lỗ thỏ, cướp phục hầm
20. Năm trước qua ải, dân khóc đắng!

Đức Thuấn lắm lừa?! Mê là tỉnh!
Vắng tiếng dạy khuyên, đông sang tây
Sao tranh sân, rào? Đành khắc đậm!
Khó đổi dạ mày, khuôn mặt mày!

25. Quân ta hoãn diệt đầu mục sao?
Tiếng trống Phù Long muôn hiểm:
Nhào!
Tướng võ tuân lệnh, hết giặc mãnh
Oai giọng, rửa hờn, lừng công cao

Ghi công đúng dịp mừng khánh lễ
30. Trăm quan được rõ, thêm mạnh kế
Ai bảo sóng to không thể êm?
Bể vạn dặm cuốn cùng sạch bể!

Qua – lại, máy huyền, chuyển chớp mắt
Thế cơ, lẽ trọng ở nông sâu
35. Nghĩ trong giới hạn: Càn – thánh thể
36. Tôi mong quất tôi, ngựa đua lâu (a).

TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(a) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.


Bài 63

CUNG HỌA NGỰ CHẾ: ĐOAN NGỌ
VÃN PHIẾM CHU HÀNH HẠNH
TƯ HIỀN TẤN


Phụng châu phê:
“Cận lai học tiến, khả hỉ.
Khâm thử!”
(a)

Huân phong vãn tống thủy sơ bình
Tam cổ thiên sưu (tao) phóng trạo hành
Chính vị duyệt phòng môn tỏa trọng
Phi quan cạnh độ phiến phàm khinh
Tà dương thiên ngoại vân phong họa
Tân nguyệt giang đầu kính hạm minh
Chu tiếp tàm vô thương bật trợ
Thừa (b) phong thượng kí phấn bằng trình.


Phụng châu phê:
“Chí khí sở vị lão nhi ích tráng” (c).
(b) Phụng châu điểm.

VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm...
NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa

63

KÍNH HỌA THƠ NHÀ VUA LÀM: CHIỀU TỐI
NGÀY ĐOAN NGỌ (1), ĐI DU THUYỀN THEO
CUỘC ĐI THĂM CỦA HOÀNG ĐẾ ĐẾN CỬA
HẢI PHÒNG TƯ HIỀN (2) (a)

Gió lành buổi chiều hôm đẩy đưa [dòng] nước bắt đầu lặng lờ
Ba hồi trống, ngàn (3) chiếc thuyền buông [xuống nước vạn] mái chèo [để] khởi hành
Sự đúng đắn, [ấy là] tiến hành việc khám duyệt [đồn lũy] phòng thủ, [những] chốt khóa cửa [biển] – [các việc vốn được coi là] hệ trọng
Cái sai lầm, [đó là] quan hệ cạnh tranh [ở] việc vượt sông, [các] cánh buồm – [những việc thuờng bị xem] nhẹ! (hoặc: chẳng quan hệ gì đến chuyện đua bơi [mà] cánh buồm [nhẹ] lướt)
Vầng dương lặn (tàn, úa) ngoài trời, mây [và] ngọn núi [như] vẽ tranh
Mặt trăng mới mọc (hoặc: trăng non) đầu sông, [tấm] gương [và] thuyền binh [cơ hồ tự] tỏa sáng
Thuyền, mái chèo thẹn thùng không luận bàn giúp đỡ [việc chèo chống: việc nước]
Theo (b) gió, ngõ hầu ra sức phấn kích đường [bay] chim đại bàng (c).

(1) Đoan ngọ (đoan dương: mặt trời ngay thẳng, chiếu thẳng): 5 tháng 5 âm lịch.

(2) Tư Hiền, thuộc Thừa Thiên (xem ĐNNTC., tập 1, sđd., tr. 175 - 177).

(3) Ngàn, vạn (các con số tượng trưng): nhiều lắm.

(a) “Kính vâng [chép lại] lời phê bút son đỏ [của vua]: “Gần đây, học tập [có] tiến bộ. Đáng mừng. Kính theo đó””. Đúng là lời phê của đế vương!

(b) “Kính vâng [nhận] nét điểm bằng bút son đỏ [của vua]”.

(c) “Kính vâng [chép lại] lời phê bút son đỏ [của vua]: “Chí khí – điều ấy nói lên [rằng] – cứng bền (già) mà càng thêm mạnh mẽ (trai tráng)””.


63

“CHIỀU TỐI NGÀY ĐOAN NGỌ, ĐI DU
THUYỀN THEO CUỘC ĐI THĂM CỦA
HOÀNG ĐẾ ĐẾN CỬA HẢI PHÒNG TƯ
HIỀN” (a)

Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

Chiều tiễn, nồm ru, nước lặng ngày
Trống ba, ngàn chiếc phóng chèo ngay
Khám đồn, bảo đúng: then sông tỉnh
Tranh vượt, nhìn sai: buồm lái say
Nắng xuống ngoài trời mây núi vẽ
Trăng non đầu sóng ánh thuyền lay
Lái dầm, những thẹn không lo giúp
Bừng sức gió (b) nhân, bằng vút bay (c).


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(a), (b), (c) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.


Bài 64

HÀ TRUNG ĐẠO TRUNG TÁC


Thập lí huân phong phất hạm khinh
Giang sơn toàn bức nhãn tiền trình
Quần (a) phong nam củng thần kinh tráng
Chúng thủy đông triều hải lượng hoằng
(hoành)
Tuần nhạc cửu đồng chiêm Thúy Lĩnh
Thao sư hà tất tạc Côn Minh
Thần du tận thị ưu dân kế
Đáo xứ hương bồn giáp (1) đạo nghinh.


(a) Phụng châu điểm.
(1) [hiệp?].

VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
(và dịch thơ ở bài giới thiệu)

64

VIẾT TRÊN ĐƯỜNG HÀ TRUNG (1)

[Suốt] mười dặm (2) gió mát thổi [đẩy giúp], chiếc thuyền binh nhẹ nhàng [lướt]
Toàn bức [tranh] núi sông [như] bày ra trước mắt
Mọi (a) chóp núi [các nước] phương nam đều hướng về kinh đô nhà vua hùng tráng
Các con nước phía đông thảy chầu quanh sức chứa
(: tấm lòng) [của] biển rộng lớn
Tuần xét núi lớn, cùng ngắm lâu Thúy Lĩnh (3)
Luyện tập quân binh, đâu cần mở thông qua Côn Minh (4)
Nhà vua đi [khám duyệt] tận nơi đó, ưu tư [về] kế sách [lập trận địa] lo cho dân
Đến nơi đến chốn [như vậy, nên] bình [xông trầm] thơm [ở các] đường [làng], bến đò [đều dọn bày ra để] đón chào (5).

(1) Hà Trung, thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên (không phải Hà Trung thuộc huyện Do Linh, Quảng Trị).

(2) Dặm (đơn vị đo chiều dài đường đi ngày xưa).

(3) Thúy Lĩnh: đỉnh núi Thúy Vân (nay quen gọi là Tuý Vân). Thúy Lĩnh (hay Thúy Sơn) là cách ghép, lược bớt chữ, nhưng được dùng như địa danh, nên tạm viết hoa cả hai chữ, ở trường hợp trong bài thơ này.

(4) Côn Minh: có lẽ là một thành phố ở Trung Quốc (A. Kunming, thuộc tỉnh Vân Nam). Trong thực tế, có một số lính, quan được sang nước Thanh (Trung Hoa) để tập huấn quân sự theo sự giao hảo của hai Triều đình (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 160).

(5) Nghi thức nhân dân nghênh đón nhà vua (ai không tuân theo, sẽ bị tội “bất kính” và “phạm tất” [“tất”: dọn dẹp đường sá cho vua đi]).

(a) “Kính [nhận nét] điểm son [đỏ của vua Tự Đức]”.

64

VIẾT TRÊN ĐƯỜNG HÀ TRUNG

Mười dặm gió lành thuyền vượt mau
Núi sông trước mắt – tranh phơi màu!
Kinh vua hùng mạnh, (a) Nam sơn phục
Lượng biển rộng sâu, Đông hải chầu
Xét núi, ngẫm nhìn đèo Thúy ấy
Luyện quân, cần trổ nẻo Côn đâu!
Người đi tận đó, lo dân trận (1)
Nơi đến, bình hương lối nhỏ chào.


(bản biên soạn)

(1) Nguyên văn: “dân kế” (kế sách vì dân, lo cho dân; trận thế lòng dân [lấy sự đoàn kết lòng dân làm trận địa đánh giặc]; trận thế của dân).

(a) Xin xem cuối phần chú thích bản dịch nghĩa bài này.

Bài 65

CUNG HỌA NGỰ CHẾ:
“THỰC NGẠC NGƯ”


1. Duy bỉ ngạc hề hà như bỉ
Đổ vật linh nhân tích niệm khỉ (khởi)
Vô ngạc nguyên phi vi ngạc bi
Hữu ngạc năng vô nhân ngạc hỉ
5. Nam trung địa sản tố vi nhiêu
Ngạc sinh kì gian nhất vật nhĩ
Mậu đức phổ đồng cảm nhược thiên
Noãn dục tằng kinh kỉ niên kỉ
Quy giao lượng bất thiểm sở sinh
10. Khởi loại trường xà dữ phong thỉ
Tuy phi (a) giảo sính vi uyên khu
Tha tộc khẳng linh bức xứ thử
Giang hồ hoành khí thiếu tuần nhân
Miếu điện hoàn kham cung hưởng tự
15. Tuế thường sung cống phi hảo trân
Vật chí thổ nghi bất khả dĩ
Tam thập niên lai nhị (b) thập niên
Truy ức tích kim hồ bất tự
Phong kình kết võng thiết thần tư
20. Hạ quý hải môn phương tuần thị
Long đĩnh phi tường cáp lộ gian
Tiên tất tạm đình Thai Dương chỉ
Giải ngư hà bạng tranh hiến tiền
Đế giám bồi hồi vị vô nhĩ
25. Phi tiềm ngưu chữ đãi hà thanh
Tương nhiếp long môn đồng dược lí
Cự tòng dương ngoại khóa thân lai
Quản tận phong đào thiên vạn lí
Tố du bất tùy Tây thượng ngư
30. Triều tôn đãn hướng Đông lưu thủy
Mỗi hoài thủy thổ bất thăng (thắng) tình!
Cố thác tha nhân khắc (c) quyết phỉ
Gian lao hạnh đắc kiến quân vương
Hoàng tuất thử gian sinh dữ tử
35. Tiến tân thiếu ủy cửu trùng tâm
Tứ dư hạ cập bách khanh sĩ
Thác vật thiên chương cảm khái thâm
Thôi thực quân ân đa thả chỉ
Hòa canh cửu tự quý phi tài
40. Kim ngư duy nguyện lao đắc mĩ
Niệm ngạc đương niên thẩm phục
nhung
Kim lai tưởng dĩ thức hành chỉ
Hoàn trung bằng ngạc báo bách xuyên
44. Giải giáp vô (d) vi bất trạo (1) vĩ.


(a) Phụng châu điểm.

(b) Phụng châu phê: “Thấu hối”.

(c) Phụng châu phê: “Chí khí”.

(d) Phụng châu phê: “Khủng (khúng) hối”.

(1) [điệu].

NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa

65

KÍNH HỌA THƠ NHÀ VUA LÀM:
“ĂN [THỊT] CÁ SẤU”

1. Chỉ có ngươi, cá sấu! Chừ! Cớ sao lại ngươi?
Nhìn vật khiến người nhớ lại, [việc] cũ khơi dậy
Không có [sự hiện hữu] cá sấu, đâu làm cá sấu buồn
Có [sự hiện hữu] cá sấu, có thể không là nguyên nhân [giúp] cá sấu vui
5. Đất giữa [cõi trời nước] Nam sản nở, vốn trước đây [sản vật] phong phú
Cá sấu sinh ra, [cũng] giữa chốn ấy, y như [các giống] vật mà thôi
Đức lớn (: đạo lí tốt thịnh) trải khắp, đồng đều [của
Đất nước], làm cảm động, ví như [đức lớn của] Trời
Trứng [được] dưỡng nuôi, từng trải qua bao nhiêu năm, [bao nhiêu] kỉ (1)?
Sự rộng lòng của rùa, rồng đất, chẳng xấu hổ [gì]
cho đời sống [ngươi] vốn có chăng?
10. Há loài rắn lớn cung cấp cho cương giới [đất nước ta] loài heo sao?! (*a)
Tuy chẳng (a) giảo hoạt, múa may, bởi vực sâu bức bách [ngươi trong phạm vi]
[Ngươi vẫn bị] các loài tộc khác khiến sai, ép buộc [: chia ghép] sống ở nơi này
Tính khí ngang tàng [chốn] sông nước [của ngươi] thiếu sự tuân phục loài người
Miếu điện (2) quay về [tế ở] núi gò, chịu dâng [ngươi làm vật] tế lễ, thết rượu khách
15. [Hằng] năm sung cống [ngươi], tuy [ngươi] không [hẳn] là món ngon
Sách chép [các] sản vật, [các] việc làm thích ứng với đất nước [về địa lí], không thể thiếu [tên ngươi] (hoặc: tìm tòi ghi chép các sản vật hợp thủy thổ [cũng có ngươi] là điều không thể bỏ)
Ba mươi năm qua, [ít ra là] (b) hai mươi năm
Truy tìm kí ức, xưa nay giặc giã chẳng
[có bọn nào] tương tự...
Phong tước cho cá voi (3), kết lưới, [nhằm] cắt mối lo [của] nhà vua
20. Ba tháng mùa hè, cửa biển mới [được]
qua lại xem xét
Chiếc thuyền rồng (4) nhỏ bay vút, bay liệng giữa đám hàu (: nghêu) [và] cò (*b)
Lối cấm của tiên tạm dừng [ở] đền Thai Dương (5)
Ba ba, cá, tôm, sò tranh hiến lễ vật trước
Hoàng đế xét trông (: chép việc hỏng để răn), [lòng] quẩn quanh (: bồi hồi), bảo rằng không có ngươi!
25. Không phải [ngươi] ẩn lặn [ở] bến trâu [quấy đục], chờ nước trong [của] sông
Toan kiêm [cả] Long môn (6) giống như cá chép [đã] nhảy qua (6)
Há theo [bọn] ngoại dương cỡi thân [ngươi] đến sao!
[Nhà vua] sửa trị tất cả sóng gió vạn ngàn dặm (7)
Ngược sông đi lên không tuỳ thuộc [bọn] Tây trên [lưng] cá [, cá ấy là ngươi]
30. Triều đình, tôn thất (hoặc: chầu về ngôi cao,) chỉ cầu,
chỉ hướng về [dòng] nước chảy [phía] Đông
Mỗi khi lo nghĩ [về] Đất Nước, khôn xiết tình!
Cho nên vén tay áo cất người khác lên, [để] có thể đánh (c) gục đầu [những] cái thùng đậy kín (8)
Gian lao may được thấy nhà vua
Thong thả [vẫn] bận lòng (: thương lo) [đất này] giữa khoảng sống gần kề với chết ấy
35. Tiến dâng lễ vật lên tổ tiên [mà lại] ít an ủi
lòng cửu trùng (9)
[Người trên ban đến mức] thừa thãi ân huệ, [một cách] nhún nhường, [cho] gần trăm khanh sĩ
[Nhà vua] vén tay cất vật lên (hay: mượn hình tượng cá sấu), [khiến] bài văn của Trời (10) cảm khái
(: niềm cảm xúc có động lòng thương) sâu sắc
[Vua] giục ăn, ơn vua nhiều, [vua lại] chậm rãi
[ban] vị ngọt
Tài “hòa canh” (: tài nấu canh vừa miệng) (11), lâu nay [kẻ bề tôi] tự thẹn là không tài
40. Cá vàng, chỉ một ước nguyện mò tay [xuống sông biển] bắt được cái đẹp [đó]
Nhớ cá sấu, năm gánh vác công việc [ấy], [thần] xử đoán bọn giặc (12) chịu tội [là sấu]
Nay hồi tưởng [việc] đã qua, nhận thức ra [nên] dùng [hay nên] ngừng
Trong cõi lớn rộng, cậy vào cá sấu [để giúp chúng] báo đáp trăm dòng sông
44. [Rồi sẽ] cởi bỏ áo giáp (d), [bọn phỉ là sấu] không làm gì (theo kiểu “vô vi”) (13),
[chúng] không quay ngoắt đuôi (làm phản) (14).

(1) Kỉ: 12 năm hoặc 100 năm (“thập” kỉ, thế kỉ).

(2) Miếu điện: nơi thờ vua, nơi vua ở, tức là Triều đình.

(3) Người Việt mình có lệ phong thần và thờ cá voi, ở các vùng ven bờ biển. Xem chú thích (5).

(4) Thuyền vua.

(5) Thai Dương là tên xã, thuộc huyện Hương Trà (địa giới thời Tự Đức), Thừa Thiên. Ở đó có Miếu Nam hải Long vương (ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 72 - 73). Xem chú thích (3), bên trên.

(6) Cá chép vượt Vũ môn sẽ thành rồng (theo điển tích cổ): thi đỗ, đạt danh cao, tước lớn (TĐTNTN., sđd., tr. 383).

(7) Dặm: đơn vị đo độ dài đường sá.

(8) Những thùng đựng súng đạn, muối ăn và hàng cấm nói chung, hoặc xe, tàu của Pháp.

(9) Cửu trùng: chín tầng, chín cửa, chín bệ; chỉ hoàng đế.

(10) Chỉ thiên tử, tức nhà vua (trong khuôn khổ ý hệ nho giáo đương thời của tác giả).

(11) Chơi chữ; nghĩa thực (nấu canh vừa miệng), và nghĩa bóng (điều hòa, điều động trong chính trị, kinh tế, văn hóa nội bộ xã hội; an ninh trật tự, chống ngoại xâm trong quân sự...), nhằm bày tỏ sự khiêm tốn. Xem: chú thích (17) bản dịch nghĩa bài số 56; chú thích (4) bản dịch nghĩa bài số 7; và chú thích (3) bản dịch thơ bài số 6.

(12) “Thẩm phục nhung”, có thể dịch: xử đoán quân giặc mai phục; xét cho theo quân.

(13) “Vô vi bất nhi bất vi”: “Vô vi” không phải không làm gì cả, mà thực ra là làm tất cả, ví như khoảng trống không của cái hộp để đựng đồ đạc, có khi, thường là, quan trọng hơn gỗ để làm cái hộp ấy: công dụng của cái “vô”. Xem chú thích (4), bản dịch nghĩa, bài thơ số 34. Tạm hiểu: cho những kẻ trót theo giặc Pháp, nhưng đã biết phục thiện, lập công chuộc tội, được làm các công việc không có thực quyền, hoặc được phép điều trần như Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871)...

(14) Chính hai chữ cuối: “trạo vĩ”, với hình ảnh cái đuôi cá sấu quay ngoắt – toan làm phản (nghĩa bóng, TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 477), đã làm sáng tỏ hình tượng “ngạc ngư”: ngụy tặc... Nhưng trước hai chữ “trạo vĩ” ấy, đã có chữ “bất” (không), “vô vi”, “giải giáp”, “báo bách xuyên” và đặc biệt là “bằng ngạc” (căn cứ vào [việc đền đáp trăm sông của] sấu; cậy sấu – một cách nói nhã ngữ – [để giúp sấu chuộc tội bằng cách lập công]). Rõ ràng đây là một bài thơ mượn hình tượng vật để nói về bọn ngụy, tả đạo ở Bắc Kì trước đó đã theo giặc Pháp, vào năm 1873, khi Françis Garnier và giám mục Puginier tuyển mộ. Trong số ấy, có những tên đã được giặc Pháp cất nhắc lên làm tổng đốc, án sát như tên thợ rèn tổng đốc Trương chẳng hạn!

Trước tình hình đó, đành phải mềm dẻo với bọn này, ở cấp thấp. Và chính vua Tự Đức cũng hiểu rằng, Nguyễn Văn Tường đã “xin hãy để lại, đợi để sai phái, cho yên lòng phản trắc” của bọn chúng (ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 83). Quả thật, bọn chúng “bèn đến xin thú, hết sức làm việc” (sđd., tr. 84). Đến lúc tình hình ở Bắc Kì trở lại ổn định, Trần Đình Túc, Cơ mật viện dâng tập tâu, làm phiếu nghĩ định cho bọn ngụy, tả đạo ấy (có tên là hào phú, lắm đồ đệ; có tên đã đỗ tú tài) được “chiểu hàm thất phẩm cấp lương, theo quân tỉnh, phái đi đánh giặc” (tập 33, sđd., tr. 84). Nhưng vua Tự Đức lại đổi ý kiến, không đồng ý, và lệnh cho Nguyễn Uy “sai phái, đợi có công trạng thực, do Nguyễn Uy xét tâu lục dụng, mới cho. Nguyễn Uy cũng phải khéo kiềm chế vỗ về, xét có tình tiết phản nghịch thì trừ bỏ trước khi việc xảy ra, có lẽ mới là ổn thỏa cả”; Trần Đình Túc và Nguyễn Uy tuân lệnh (ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 85; xem thêm sđd., tr. 9 - 10; tập 32, sđd., tr. 363).

Đấy là cơ sở hiện thực lịch sử của bài thơ này, 12.1873 - 8.1874, trong đó có nguyên tắc và nghệ thuật dùng người.

(a) “Kính [nhận] nét điểm bút son [của nhà vua]”.

(b) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua Tự Đức]: “Quá tối [nghĩa]””.

(c) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua Tự Đức]: “Chí khí (rất khí khái)””.

(d) “Kính [nhận] lời phê bút son [của vua Tự Đức]: “Tối [nghĩa] kinh khủng”, “sợ [rằng] tối [nghĩa]”” (*c).
65

“ĂN THỊT CÁ SẤU”

Kính họa thơ hoàng đế Tự Đức

1. Chỉ ngươi, sấu! Hề! Sao lại ngươi?
Nhìn vật, xui người kí ức khơi
Không sấu, vốn đâu làm buồn sấu
Nào vì hiện hữu sấu vui tươi!
5. Trong cõi nước Nam, sản vật lắm
Sấu sinh, thế đó, một loài thôi
Đức Tổ Quốc trải – động lòng Trời
Trứng nuôi từng qua mấy niên kỉ?
Tâm rùa, rồng giúp... xấu chi nhỉ?
10. Rắn lớn há đẻ heo xứ này?
Tuy chẳng (a) múa may, vực bó hẹp
Loài khác buộc ngươi sống nơi đây
Sông hồ ngang tàng thiếu phục phép
Triều đình tế đàn, lễ là ngươi
15. Thường năm sung cống
(chưa ngon nhất!)
Chép vật, tục đất, thiếu sao thôi!
Ba chục năm qua, hai (b) chục năm...
Truy nhớ, giặc xưa đâu tương tự!
Ngăn kình, kết lưới, cắt lo thầm
20. Mùa hè, cửa biển, tuần xét đủ
Thuyền giữa trai cò: rồng bay vươn (*d)
Lối tiên tạm dừng đền Thai Dương
Ba ba, cá, tôm tranh hiến trước
Xét răn: vắng ngươi! Vua bảo buồn
25. Không lặn bến trâu, chờ sông trong
Cùng kiêm cửa rồng, như chép nhảy
Ngươi theo, bọn ngoại cỡi thân sao!
Vua trị cả sóng vạn dặm ấy
Ngược nguồn không tùy Tây trên ngươi
30. Triều, tôn một hướng nước Đông chảy
Khi nghĩ đất nước, khôn xiết tình!
Mượn người cố đánh (c) gục “thùng” đậy
Gian lao may được thấy nhà vua
Đất này, ngẫm thương giữa chết sống
35. Dâng lễ, thiếu yên lòng cửu trùng
Thừa ơn, cúi tặng trăm lương đống
Mượn vật, văn trời cảm khái sâu
Giục ăn, vua ban, lại ngọt thết
“Hòa canh” vốn thẹn, tài nào đâu
40. Cá vàng, chỉ ước vớt cái đẹp!
Nhớ sấu... Năm xưa, xét sấu hàng
Tưởng lại, hiểu dùng hay ngừng hẳn
Trong cõi, giúp sấu đáp trăm sông
44. Cởi giáp, vô (d) vi, hết ngoắt phản.


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(a), (b), (c), (d) Xin xem cuối phần chú thích của bản dịch nghĩa bài này.


Cước chú của bài thơ số 65, thuộc phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):
(*a) Trường xà phong thỉ: [nghĩa đen là] rắn dài heo to.

(*b) Cáp, lộ: Cáp Châu (Hạp Châu) và Lộ Châu, hai điạ danh, cũng là hai đồn phòng thủ mặt biển ở cửa biển Thuận An (Huế).

(*c) Xin lưu ý: “Thấu hối” còn có nghĩa là “thấu suốt [sự] tăm tối”; “khủng hối” còn được hiểu là “kinh khủng (sợ hãi)! tăm tối!”. Chúng tôi nhận thấy những dòng thơ của Nguyễn Văn Tường được châu phê này không có gì khó hiểu (tối nghĩa) cả. Hẳn là vua Tự Đức lo sợ sự phản trắc (“trạo vĩ”) của các quan ở những tỉnh thành quan yếu, như tên thợ rèn tổng đốc Trương, Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Thân? Căn cứ vào nội dung, vào vị trí số 65 của bài thơ, chúng tôi đoán năm sáng tác hẳn là trước 1877 hoặc 1878. “Ba mươi năm đã qua”, ứng vào giai đoạn 1847 - 1877. 1847 là năm hai chiến hạm Pháp, Victorieuse và Gloire, pháo kích vào Đà Nẵng. Pháp thực sự tấn công xâm lược nước ta năm 1858, ứng với “hai mươi năm...”. (Xem NĐNĐDVPVTH., sđd., tr. 98 - 99, tr. 69 - 71). Hoặc có thể Tự Đức dùng chữ “khủng” với âm “khúng” (lo sợ ý ở ngoài lời sẽ xảy ra), [HVTĐ., sđd., tr. 202].

(*d) Cáp, Lộ, thuyền len: rồng bay vươn.



Bài 66

HẠ TRẦN TRỌNG CUNG
THẤT THẬP THỌ


Thủy hữu Tam Hà động (đỗng) hữu
“chiềng” (1)
Địa Linh chung phúc phỉ kim nhiên
Đới cừu (cầu) tọa trấn ưu vi lão
Bàn thác phân đầu động tắc viên
Hổ bái phi đan phùng khánh điển
Long biên lưu tuyết tá kì niên
Gian nan hồi ức tương tùy nhật
Bán tại giang hồ bán nhật biên.


NGUYỄN TÔN NHAN
phiên âm và dịch nghĩa

(1) Xin xem chú thích (3), bản dịch nghĩa bài này.

66

MỪNG TRẦN TRỌNG CUNG (1)
THỌ BẢY MƯƠI [TUỔI]

Nước [nguồn quê hương] có Tam Hà (2), bản, xóm (của người đồng bào thiểu số) có chiềng (3)
Địa Linh (4) (sự thiêng liêng của đất) un đúc nên phước
lành, đâu phải [khi không] ngày nay [mới được] vậy
Đai áo, áo cừu (5), ngồi gìn giữ (nơi trấn nhậm cho dân); [việc] tốt đẹp nhờ cứng bền
Cái bàn, viên đá mài (6), rối bời [mà] hợp [nhau] (trong
công việc của nước); [sự] hoạt động tất nhiên trọn vẹn
Hổ (7) trao chức, khoác [áo] điều, gặp điển lễ lớn
Rồng ghi chép (8), lưu lại tuyết [trắng], vay [lại] tuổi sáu mươi (9)
Gian khó, nhớ lại ngày theo [cạnh] nhau [để làm
việc nước]
[Cảm thấy tâm hồn] một nửa ở nơi ao hồ sông nước, một nửa ở cạnh mặt trời.

(1) Trần Đình Túc (1808 - 1892), ĐNLT., sđd., tập 4, tr. 235 - 238.

(2) Sông Hiền Lương; đoạn cuối sông Thạch Hãn; và sông Hiếu (Do Linh, Quảng Trị; xem bản đồ). Tam Hà còn là điạ danh ở Quảng Trị thời Nguyễn bấy giờ (tên huyện lị) [xem ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 174).

(3) Tác giả phiên âm chữ “chiềng” (một từ tiếng Việt cổ)? “Chiềng”, theo nghĩa từ điển, là từ để gọi người bậc trên; là bản, mường lớn; hoặc là trung tâm của một khu vực. Ở đây, theo nghĩa thứ ba, trung tâm của các bản, làng nhân tộc thiểu số thuộc huyện Địa Linh (nay là Do Linh), Quảng Trị. [Xem ĐNNTC., sđd., tập 1, tr. 101; Pierre Pigneaux de Béhaine, Tự vị Annam – Latinh (1772 – 1773), sđd., tr. 77; và Viện Ngôn ngữ, Từ điển tiếng Việt, sđd., tr. 152 - 153 và tr. 334]. Về chữ “chiềng”, tác giả đã có một lần sử dụng ở bài “Cùng thống đốc Hoàng lên đài cột cờ, cảm xúc” (bài 30 trong sách này).

(4) Địa Linh, xem chú thích (3) ở trên.

(5) Đai áo, áo da (cừu): biểu trưng cho lúc còn làm quan với sắc phục quy định; đây chỉ là chi tiết hoán dụ. Xin xem thêm chú thích (8) của bản dịch nghĩa bài thơ số 11.

(6) Cái bàn, viên đá mài: chi tiết biểu trưng cho thời cầm gươm tiễu phỉ, đánh thực dân Pháp (bàn mưu tính kế ở cái bàn, mài gươm ở đá mài). HVTĐ., sđd., tr. 707, định nghĩa chữ “thác”: Kinh Thi có câu: “tha sơn chi thạch, khả dĩ vi thác” (đá ở núi khác, có thể lấy làm đá mài). Ý nói: bè bạn hay khuyên ngăn để cứu lỗi lầm cho mình. Xin xem thêm chú thích (8) của bản dịch nghĩa bài thơ số 11.

(7) Hổ, chỉ tướng cầm quân.

(8) Rồng, chỉ vua. Vua Tự Đức thường làm thơ, trong đó có nhiều bài kí sự bằng thơ. Long Biên cũng là địa danh.

(9) Già rồi, Trần Đình Túc vẫn phải nhận chức của Triều đình, như ở những năm 1873, 1874. Ở đây tác giả nhắc đến thời 1874 (với địa danh Long Biên, Hà Nội). Nguyễn Văn Tường viết bài thơ này, chắc chắn là vào cuối năm 1877 hoặc trong năm 1878, dịp mừng thọ bảy mươi tuổi của Trần Đình Túc. Năm 1874, Trần Đình Túc đang ở tuổi sáu mươi, chính xác là 66 tuổi.

66

MỪNG TRẦN ĐÌNH TÚC
THỌ BẢY MƯƠI TUỔI

Nước chảy Tam Hà, bản có chiềng
Đất linh đúc phúc, nên phần riêng
Áo, đai, ngồi giữ, bền nhờ vững
Bàn, đá, hợp tranh, động hẳn yên
Hổ tặng, khoác điều, gặp lễ lớn
Rồng ghi, lưu tuyết, mượn thời quyền!
Gian nan, nhớ thuở theo nhau bước
Nửa tại sông hồ, nửa ánh thiên.


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ



Hết phần 2

Xin xem tiếp phần 3

Không có nhận xét nào: